CHƯƠNG 5: LỊCH SỬ NGHIÊN
CỨU KHOA HỌC VỀ TRƯỜNG NĂNG LƯỢNG CON NGƯỜI
Mặc dầu các nhà thần bí
không nói đến trường năng lượng hay hình thái bioplasma, truyền thống của họ
qua 5.000 năm trên khắp bốn phương vẫn phù hợp với những quan sát mà các nhà
khoa học bắt đầu tiến hành gần đây.
Truyền thống tâm linh
Người tinh thông của các
tôn giáo nói về chuyện họ trải nghiệm hoặc nhìn thấy ánh sáng quanh đầu mọi
người. Qua các thực hành tôn giáo như thiền định và cầu kinh, họ đạt tới các
trạng thái bành trướng ý thức khai mở cho khả năng tri giác cao cấp tiềm tàng
của họ.
Truyền thống tâm linh cổ
đại của Ấn Độ, trải qua 5.000 năm nói về một loại năng lượng vũ trụ gọi là
Prana. Năng lượng vũ trụ nầy được coi như thành phần cơ bản và nguồn gốc của
mọi sự sống. Prana, hơi thở của sự sống, chuyển dịch qua mọi hình thái và mang
sự sống đến cho chúng. Các nhà yoga thực hành thao tác năng lượng nầy qua các
kỹ thuật thở, thiền định và thể dục để duy trì các trạng thái biến đổi ý thức
và giữ gìn tuổi xuân vượt xa giới hạn bình thường.
Người Trung Hoa, ba ngàn
năm trước công nguyên, thừa nhận sự tồn tại của một năng lượng sống mà họ gọi
là Khí. Mọi vật chất, sống hoặc vô tri, đều gồm có và toả ra năng lượng vũ trụ
nầy. Khi chứa đựng hai lực hoàn toàn trái ngược nhau là âm và dương. Khi âm và
dương cân bằng thì cơ thể sống biểu lộ sức khoẻ thể chất, nếu mất cân bằng sẽ
dẫn đến trạng thái bệnh tật. Dương thịnh dẫn đến hoạt động quá mức của các cơ
quan. Âm thịnh dẫn đến hoạt động kém. Nếu cả hai mất cân bằng đều dẫn đến ốm
đau. Nghệ thuật châm cứu cổ xưa tập trung vào việc cân bằng âm dương.
Kabbalah, thuyết thần
trí huyền bí Do Thái, hình thành khoảng năm 538 trước công nguyên, quy những
năng lượng tương tự là ánh sáng tinh tú. Các bức hoạ của đạo Thiên Chúa vẽ chân
dung Chúa Jesus và các nhân vật tâm linh khác có trường ánh sáng bao quanh.
Kinh Cựu Ước nhiều lần nhắc đến vầng sáng quanh con người và sự xuất hiện ánh
sáng, nhưng qua bao thế kỷ, những hiện tượng nầy đã mất hết ý nghĩa ban đầu. Ví
dụ, bức tượng Moses của MichelAngelo thể hiện Karnaeem như hai cái sừng mọc
trên đầu thay vì hai chùm sáng mà thế giới buổi đầu đã nói đến (Trong tiếng Do
Thái cổ, từ nầy vừa có nghĩa là sừng vừa có nghĩa là ánh sáng).
John White, trong cuốn
sách của ông nhan đề Khoa học tương lai, liệt kê 97 nền văn hoá khác nhau nói
đến hiện tượng hào quang với 97 tên gọi khác nhau.
Nhiều giáo huấn bí
truyền – các đoạn trích Kinh Vệ Đà cổ Ấn Độ, các nhà Thần trí, các nhà
Rosicrucians (một hội kín các triết gia ở thế kỷ 17 – đầu thế kỷ 18 rất thông
thạo những bí mật của tạo háo, do Rosae Crucis khởi xướng từ thế kỷ 15 – ND),
các thầy lang của thổ dân Mỹ, các Phật tử Tây Tạng và Ấn Độ, các Phật tử Zen
Nhật Bản, Bà Blavatsky, Rudolph Steiner, v.v. – mô tả trường năng lượng con
người một cách chi tiết. Gần đây, nhiều người qua công phu rèn luyện một cách
khoa học hiện đại đã có thể tăng thêm khả năng quan sát thể chất ở mức cụ thể.
Truyền thống khoa học;
500 năm trước CN qua thế kỷ 19
Từ đầu đến cuối lịch sử,
quan niệm về một năng lượng vũ trụ lan toả khắp tự nhiên đã được nhiều người có
trí tuệ khoa học ở phương Tây kiên định. Năng lượng vũ trụ nầy, cảm nhận dưới
dạng một vật thể sáng, đã được các môn đệ của phương Tây ào khoảng năm 500
trước công nguyên. Họ khẳng định rằng ánh sáng của trường năng lượng vũ trụ có
thể tạo ra một số tác động khác nhau đối với thân thể con người, kể cả chữa
bệnh.
Hai nhà thông thái Boirac
và Liebeault đầu thế kỷ 12 thấy rằng con người có một năng lượng có thể gây
tương tác từ xa giữa các cá thể. Họ kể rằng có người chỉ bằng sự có mặt của
mình cũng làm cho người khác khoẻ mạnh hoặc ốm yếu. Nhà thông thái Paracelsus
thời trung cổ gọi năng lượng nầy là “Illiaster” và nói rằng “Illiaster” đó gồm
có cả sinh lực lẫn vật chất sống. Nhà toán học Helmont trong những năm 1800
hình dung ra một dòng chảy chất lỏng vũ trụ lan toả ra tự nhiên và đó không
phải là vật chất hữu hình hoặc cô đặc, mà là một sinh linh thuần khiết thâm
nhập mọi cơ thể. Nhà toán học Leibnitz viết rằng những yếu tố thíêt yếu của vũ
trụ là các trung tâm lực chứa đựng cội nguồn vận động của chính chúng.
Các đặc tính khác của
hiện tượng năng lượng vũ trụ được Helmont và Mesmer quan sát trong những năm
1800; chữ mesmerism, thuật thôi miên, ra đời từ đó. Họ tường trình rằng các vật
sống hoặc vật vô tri đều có thể được nạp “chất lỏng” đó, và các vật thể hữu
hình có thể tác động lẫn nhau từ xa. Điều nầy gợi ý về khả năng tồn tại của một
trường, giống như trường điện từ, trong chừng mực nào đó.
Count Wilhelm Von
Reichenbach bỏ ra 30 năm giữa của những năm 1800, để thí nghiệm cái trường mà
ông gọi là lực “odic”. Ông thấy rằng nó biểu lộ nhiều đặc tính tương tự như
trường điện từ mà James Clerk Maxwell đã mô tả vào thế kỷ 19. Ông cũng thấy có
nhiều đặc tính chỉ duy nhất lực Odic mới có. Ông xác định rằng các cực của nam
châm biểu lộ không những tính có cực từ mà còn thêm một tính có cực duy nhất
kết hợp với “trường odic” nầy. Các vật khác, như các tinh thể chẳng hạn, cũng
biểu lộ tính có cực duy nhất đó, mặc dầu bản thân chúng không có từ tính. Các
cực của trường lực odic biểu lộ các đặc tính chủ quan là “nóng, đỏ và khó
chịu”, hoặc “xanh, lạnh và dễ chịu” khi quan sát những cá thể nhạy cảm. Hơn
nữa, ông xác định rằng các cực khác dầu không hút nhau như trong điện từ. Ông
thấy rằng, với lực odic, các cực cùng dấu hút nhau, hoặc “giống nhau thì hút
nhau”. Đây là một hiện tượng hào quang vô cùng quan trọng, như ta sẽ thấy sau
nầy.
Von Reichenbach nghiên
cứu mối quan hệ giữa bức xạ điện từ của mặt trời và những thao tác tập trung
trường odic của nhiều người kết hợp với nhau. Ông thấy rằng mức tập trung lớn
nhất của năng lượng nầy nằm giữa vùng đỏ và vùng tím ngả xanh của quang phổ.
Von Reichenbach nói rõ ràng các điện tích khác dẫu tạo ra các cảm giác chủ quan
về ấm và lạnh ở mức độ mạnh yếu khác nhau, mà ông có thể liên hệ với bảng tuần
hoàn nguyên tố Mendeleev qua một loạt test với những chủ thể thực nghiệm được
bịt mắt. Tất cả các ýêu tố điện dương tạo cảm giác chủ quan về ấm và gây ra cảm
giác khó chịu; tất cả các yếu tố điện âm ngả về phía lạnh, dễ chịu, có mức cảm
giác mạnh hay yếu tương ứng với vị trí của chúng trên bảng tuần hoàn. Các cảm
giác thay đổi từ ấm sang lạnh tương đương với các màu của quang phổ thay đổi từ
đỏ sang chàm.
Von Reichenbach thấy
rằng trường odic có thể dẫn truyền qua dây kim loại, tốc độ dẫn truyền rất chậm
(xấp xỉ 4m/s hoặc 13 lut/s) và tốc độ nầy dương như tuỳ thụôc vào tỷ trọng khối
lượng hơn là vào dẫn suất của vật liệu. Hơn nữa, có thể nạp năng lượng nầy cho
các vật thể theo phương thức tương tự như nạp bằng cách sử dụng điện trường.
Các thí nghiệm khác chứng minh rằng có thể quy tụ phần nầy của trường như quy
tụ ánh sáng bằng thấu kính, trong khi phần kia vẫn toé ra xung quanh thấu kinh,
tựa như ngọn lửa nến toé ra xung quanh các vật đặt trên đường đi của nó. Phần
lệch của trường odic cũng vẫn tác động như ngọn lửa nến khi nó được đặt vào
giữa luồng không khí, điều nầy gợi lên giả thuyết cho rằng cấu tạo của nó giống
như chất khí. Các thí nghiệm nói trên cho thấy trường hào quang có những đặc
tính gợi lên nhận xét chorằng nó vừa có tinh hạt như chất lỏng, vừa có năng
lượng như sóng ánh sáng.
Von Reichenbach thấy
rằng lực trong thân thể con người tạo ra tính có cực tương tự như cái hiện hữu
trong các tinh thể dọc theo những trục chính của chúng. Dựa trên các bằng chứng
thí nghiệm, ông mô tả phần bên trái của thân thể như một cực âm và phần bên
phải như một cực dương. Đây là một khái niệm tương tự như nguyên lý âm dương
của người Trung Hoa cổ xưa đã trình bày ở trên.
Quan sát khoa học của
các bác sĩ thế kỷ 20
Từ các chương trên, ta
có thể thấy rằng các công trình nghiên cứu cho đến thế kỷ 20 hướng tới việc
quan sát những đặc tính khác nhau của một trường năng lượng bao quanh con người
và các vật thể khác. Từ năm 1990, nhiều bác sĩ đã quan tâm nhiều đến hiện tượng
nầy.
Năm 1911, bác sĩ William
Kilner báo cáo các nghiên cứu của mình về trường năng lượng con người được nhìn
thấy qua màn màu và bộ lọc. Ông mô tả cái mình nhìn thấy như một màn sương rực
sáng xung quanh toàn bộ thân thể ở ba vùng : a) lớp màu tối rộng ¼ in. sát mặt
da; b) lớp giống hơi nước hơn, rộng 1 in. tuôn ra thẳng góc với thân thể, bao
quanh lớp nói trên; c) lớp ngoài cùng, sáng và mỏng manh, hơi ra xa một chút,
có đường bao quanh không rõ rệt, rộng khoảng 6 in. Kilner thấy rằng điện mạo
của “hào quang” (như ông vẫn gọi) của từng người khác nhau, tùy theo tuổi, giới
tính, khả năng tâm thần và sức khỏe. Một số bệnh tật biểu lộ ra thành những đốm
lớn hoặc những bất thường trên hào quang, dẫn Kilner đến chỗ phát triển một hệ
thống chẩn đoán dựa trên màu sắc, cách sắp xếp, thể tích và diện mạo của lớp
bọc. Một số bệnh được ông chẩn đoán bằng cách nầy là viêm nhiễm gan, các khối
u, viêm ruột thừa, động kinh và các rối loạn tâm lý như hysteria.
Giữa những năm 1900, BS
George De La Warr cùng với BS Ruth Brown tạo ra những dụng cụ mới để phát hiện
bức xạ từ các mô sóng, phát triển Bức Xạ Học, một hệ thống dò tìm, chẩn đoán và
chữa trị từ xa bằng cách sử dụng năng lượng sinh học của con người. Công trình
gây ấn tượng sâu sắc nhất của ông là những bức ảnh chụp bằng cách sử dụng tóc
của bệnh nhân làm antenna. Các bức ảnh nầy cho thấy những cấu trúc bệnh lý bên
trong mô sóng, như các khối u và nang trong gan, lao phổi và u ác ở não. Thậm
chí ông còn chụp được một bào thai ba tháng trong dạ con.
BS Wilhelm Reich , nhà
tâm thần học, bạn đồng sự của Freud, trong phần đầu của thế kỷ 20, bắt đầu quan
tâm đến một loại năng lượng vũ trụ mà ông gọi là “orgone”. Ông nghiên cứu mối
quan hệ của các nhiễu loạn dòng chảy orgone trong thân thể người với các bệnh
thức thể và bệnh tâm lý. Reich phát triển một phương thức tâm lý liệu pháp
trong đó các kỹ thuật phân tích Freud về trạng thái bỏ ngõ tiềm thức được hợp
nhất với các kỹ thuật vật lý để giải tỏa tắc nghẽn cho dòng chảy tự nhiên của
năng lượng orgone trong thân thể. Bằng cách giải tỏa các tắc nghẽn nầy, Reich
có thể xua tan được các trạng thái tâm thần và cảm xúc tiêu cực.
Trong thời kỳ từ 1930
đến 1950, Reich tiến hành nhiều thí nghiệm về năng lượng nầy bằng cách sử dụng
các trang thiết bị điện tử và y học mới nhất thời bấy giờ. Ông quan sát thấy
năng lượng nầy rung động trên bầu trời và xung quanh tất cả các vật sống hoặc
vô tri. Ông quan sát các rung động của năng lượng orgone phát ra từ các vi sinh
vật bằng cách sử dụng một kính hiển vi cực mạnh có cấu tạo đặc biệt.
Reich chế ra nhiều loại
dụng cụ vật lý để nghiên cứu trường orgone . Một dụng cụ của ông là "bộ
tích lũy" có khả năng cô đặc năng lượng orgone được ông dùng để nạp năng
lượng này cho các vật thể. Ông quan sát thấy rằng một cái đèn ống chân không xả
điện vẫn được một dòng điện có điện thế thấp hơn nhiều lần so với dòng điện xả
bình thường của nó sau khi được nạp trong bộ tích lũy nầy một thời gian lâu .
Hơn nữa, ông còn công nhận là đã tăng được tốc độ phân rã hạt nhân của một đồng
vị phóng xạ bằng cách đặt nó vào trong bộ tích lũy orgone .
BS Lawrence Bendit và
Phoebe Bendit tiến hành nhiều quan sát sâu rộng về trường năng lượng con người
vào năm 1930 và liên hệ các trường nầy với sức khỏe, chữa trị và phát triển tâm
trí. Công trình nghiên cứu của hai ông nhấn mạnh tầm quan trọng của tri thức và
sự thấu hiểu các lực hình thành etheric hùng mạnh vốn là nền tảng của sức khỏe
và chữa trị trong thân thể.
Gần đây hơn, BS Schafca
Karagulla đối chiếu những quan sát bằng mắt do các nhà ngoại cảm tiến hành với
tình trạng rối loạn thực thể. Ví dụ, một nhà thấu thị tên là Dianne có khả năng
quan sát các mô hình năng lượng ở những người ốm yếu và mô tả một cách rất
chính xác những vấn đề về y học, từ rối loạn não cho đến tắc đại tràng. Những
nhận xét về cơ thể etheric nầy cho thấy một cơ thể năng lượng sống hoặc một
trường tạo thành ma trận thâm nhập vào thân thể đậm đặc như một mạng lưới lấp
lánh những chùm sáng. Ma trận năng lượng nầy là mô hình cơ bản trên đó vật chất
thực thể của các mô được hình thành và giữ chặt. Các mô tồn tại như là chỉ vì
có trong sống đó ở phía sau .
BS Karagulla cũng đối
chiếu rối loạn của luân xa với bệnh tật. Ví dụ, nhân ngoại cảm Dianne mô tả
luân xa ở cổ của một bệnh nhân tính tình quá nhanh nhẩu có màu đỏ và xám xỉn.
Khi Dianne nhìn thẳng vào tuyến giáp thì thấy nó có cấu trúc quá xốp và mềm.
Phần bên phải của tuyến giáp hoạt động không tốt bằng phần bên trái. Bệnh nhân
được chẩn đoán qua các kỹ thuật y khoa thông thường là bị bệnh Graves làm cho
tuyến giáp to ra và thùy phải to hơn thùy tráị.
TS Dora Kunz, chủ tịch
Phân hội thần trí Mỹ, đã nhiều năm làm công tác y học và chữa trị. Trong công
trình Diện mạo tâm linh của nghệ thuật chữa trị, bà nhận xét rộng: "Khi
trường sinh lực được khỏe mạnh thì bên trong nó có một nhịp điệu tự trị tự
nhiên " và "mỗi cơ quan trong thân thể có nhịp điệu năng lượng tương
ứng của nó trong trường etheric."
Giữa các khu vực của
những cơ quan khác nhau, các nhịp khác nhau tương tác như thể đang xảy ra một
chức năng di chuyển; khi thân thể được nguyên vẹn và khỏe mạnh, các nhịp diệu
nầy di chuyển dễ dàng từ cơ quan nầy sang cơ quan khác. Tuy nhiên, trong trường
hợp bệnh lý, các nhịp điệu cũng như các mức năng lượng đều thay đổi. Ví dụ, di
chứng của phẫu thuật cắt ruột thừa có thể thấy được trong trường năng lượng.
Các mô của thân thể, lúc nầy áp sát nhau, đều có một chức năng di chuyển năng
lượng thay đổi xuất phát từ mô trước đây do ruột thừa điều chỉnh. Trong vật lý
học, điều nầy được mệnh danh là "ngược đôi " hoặc "không xứng
đôi ". Mỗi một mô kế cận bị "ngược đôi " có nghĩa là năng lượng
có thể chẳng qua tất cả các mô. Phẫu thuật hoặc bệnh tật làm thay đổi tình
trạng "ngược đôi " đến mức mà năng lượng bị tiêu hao ở mức độ đó hơn
là được di chuyển."
BS John Pienakos phát
triển một hệ thống chẩn đoán và chữa trị các rối loạn tâm lý dựa trên các quan
sát trường năng lượng con người thu được bằng mắt thường và bằng con lắc. Thông
tin từ các quan sát của ông về các cơ thể năng lượng phối hợp với các phương
pháp tâm lý trị liệu được phát triển trong Năng lượng học sinh học và với một
công trình nói về quan điểm do Eva Pierrakos phát triển. Quá trình nầy, được
gọi là Năng lượng học nồng cốt, là một quá trình thống nhất việc chữa trị bên
trong tập trung tác động qua những cơ cấu bảo vệ cái tôi và nhân cách, nhằm
khai thông các năng lượng của thân thể. Năng lượng học nồng cốt nhằm cân bằng
tất cả các cơ thể (thể chất etheric , cảm xúc, tâm thần và tâm linh) để thực
hiện việc chữa trị hài hòa cho con người một cách trọn vẹn.
Từ các công trình nói
trên, tôi kết luận rằng phát sáng từ thân thể con người có liên quan đến sức
khỏe. Tôi trù định một việc rất quan trọng là tìm ra phương thức định lượng
hiện tượng phát sáng nầy bằng phương tiện đo ánh sáng được tiêu chuẩn hóa, đáng
tin cậy nhằm làm cho thông tin nầy có thể xử dụng được trong chấn động lâm sàng
của ngành y và làm cho bản thân năng lượng trở nên bổ ích trong điều trị.
Các đồng sự và tôi đã
điều khiển một số thí nghiệm đo trường năng lượng con ngườị. Trong một thí
nghiệm, BS Richard Dobrin, BS John Pierrakos và tôi đã đo được mức ánh sáng có
chiều dài sóng khoảng 350 nanomet trong buồng tối trước, trong, và sau khi có
mặt nhiều người. Các kết quả cho thấy ánh sáng hơi tăng trong buồng tối khi có
nhiều người trong đó. Trong một trường hợp, mức ánh sáng giảm thực sự một người
nào đó mệt lã và đầy tuyệt vọng có mặt trong buồng tối. Trong một thí nghiệm
khác tiến hành cùng câu lạc bộ cận tâm lý học Mỹ , chúng tôi có thể trình bày
một phần của hào quang trên màn ảnh vô tuyến đen trắng với một thiết bị được sử
dụng gọi là bộ tạo màu . Thiết bị nầy làm cho người ta có khả năng khuếch đại
mạnh mẽ những biến thiên cường độ sáng ở gần thân thể.
Trong một thí nghiệm
khác, tiến hành tại trường đại học tổng hợp Drexel, cùng với William Eidson và
Karen Gestla một nhà ngoại cảm làm việc với BS Rhine nhiều năm tại trường đại
học tổng hợp Duke, chúng tôi đã thành công trong việc dùng năng lượng hào quang
tác động lên một chùm nhỏ tia laser 2 mw làm cho nó uốn cong hoặc yếu đi.
Tất cả những thí nghiệm
nầy giúp xác định sự tồn tại hiển nhiên của các năng lượng, nhưng vẫn chưa kết
luận các kết quả được truyền đi khắp nơi trên các buổi phát vô tuyến truyền
hình của NBC, nhưng việc nghiên cứu tiếp tục không được tiến hành vì thiếu ngân
quỹ.
Ở Nhật Bản, Hiroshi
Motoyama đã có thể cản mức ánh sáng thấp phát ra từ tiến hành nghiên cứu nầy
trong buồng tối, với một camera điện ảnh làm việc ở mức ánh sáng yếu .
BS Zheng Rongliang ở
Trường đại học tổng hợp Lanzhọu, Trung Quốc, đo năng lượng (gọi là
"Khí") tỏa ra từ thân thể người bằng cách xử dụng máy dò sinh học làm
bằng một gân lá cây nối với một thiết bị quang lương tử (thiết bị đo ánh sáng
yếu). Ông nghiên cứu hiện tượng tỏa trường năng lượng của một thầy dạy khí công
(khí công là một dạng thể dục dưỡng sinh cổ xưa của Trung Hoa). Và hiện tượng
tỏa trường năng lượng của một nhà thấu thị. Kết quả các nghiên cứu của ông cho
thấy hệ thống phát hiện đáp ứng lại bức xạ dưới dạng xung. Xung tỏa ra từ bàn
tay của thầy dạy khí công khác xa xung của nhà thấu thị.
Tại Viện nghiên cứu hạt
nhân Shanghaì của Viện hàn lâm Sinica, người ta cho biết rằng một số sinh lực
phát ra 'từ các thầy dạy khí công" dường như có sóng âm tần số rất thấp
xuất hiện dưới dạng một sóng mang dao động tần số thấp. Trong một vài trường
hợp, người ta cũng phát hiện thấy "khí " dưới dạng một dòng chảy vi
hạt. Đường kính các hạt này khoảng 60 micron và chúng có vận tốc khoáng 20-50
cm~ (hay 8-20 in/s).
Vài năm trở lại đây, một
nhóm các nhà nghiên cứu thuộc Viện nghiên cứu thông tin sinh học ẠS. Popov công
bố phát hiện các sinh vật phát ra những rung động năng lượng có tần số từ 300
đến -2.000 nanomet. Họ gọi năng lượng này lập trường sinh học hoặc bioplasma.
Họ thấy rằng những người có khả năng chuyển năng lượng sinh học thì có trường
sinh học rộng hơn và mạnh hơn. Những phát hiện nầy được xác nhận tại Viện Hàn
lâm y học Maxcơva và được các nghiên cứu tại Anh, Hoà Lan, Đức và Ba Lan đồng
tình .
Nghiên cứu lý thú nhất
về hào quang con người mà tôi thấy đã được BS Valone Hunt và những người khác
tiến hành tại UCLA. Trong một nghiên cứu về tác động của việc điều khiển tâm
thần lên thân thể và linh hồn (“Nghiên cứu cấu trúc Trường năng lượng thần kinh
cơ và tiếp cận cảm xúc), bà ghi được các dấu hiệu có tần số rất thấp từ thân
thể người trong môt loạt các buổi điều khiển tâm thần.
Để ghi nhận chúng, bà đã
dùng các điện cực cơ bản bằng bạc/clorure hạc đặt lên da, cũng trong thời gian
nầy bằng cách ghi các dấu hiệu điện tử. Đức Rosalyn Bruỵère thuộc 'trung tâm
chữa trị bằng ánh sáng, Glendale, California, quan sát các hào quang của cả
người điều khiển tâm thần và của người được điều khiển. Bình luận của bà đã
được ghi vào cuốn băng ghi các dữ kiện điện từ. Bà trình bày một bản báo cáo về
màu sắc, kích thước và vận động năng lượng của các luân xa, kể cả những đám mây
hào quang.
Về sau, các nhà khoa học
phân tích về mặt toán học các mô hình sóng đã ghi được bằng giải tích Furier và
giải tích tần số âm thanh đồ, đều thu được kết quả đáng kể.
Các hình thái sóng và
tần số kiên định đặc biệt tương quan với những màu sắc mà Đức Bruyère đã báo
cáo. Nói cách khác, khi Đức Bruyère quan sát thấy màu xanh trong hào quang ở
bất cứ vị trí đặc hiệu nào thì các số đo điện tử bao giờ cũng cho thấy hình
thái sóng màu xanh và tần số đặc hiện tại những vị trí đó.
BS Hunt lặp lại thí
nghiệm nầy với bảy người đọc hào quang khác.
Họ nhìn thấy màu sắc hào
quang tương quan với cùng mô hình tần số/sóng.
Tháng 2- 1988, các kết
quả của công trình nghiên cứu đang tiến triển cho thấy những tương quan màu
sắc/tần số sau đây (II/. = l~ertz, hay chu kỳ/giây):
Xanh 250-275Hz, pkuis
1200Hz/
Lục 250-475 Hz
Vàng 500-700 Hz
Da cam 950-1050 Hz
Đỏ 1000-1200 Hz
Tím 1000-2000 Hz, pkus
300-400; 600-800 Hz
Trắng 1100-2000 Hz
Các dải tần số nầy ngoại
trừ các dải phụ cho xanh và tím, đều sắp xếp ngược thứ tự của chuỗi màu cầu
vồng. Các tần số ghi được là sự xác nhận vai trò của thiết bị cũng như sự hiện
hữu của năng lượng được đo.
BS Hunt nói: “Trải qua
nhiều thế kỷ các nhà ngoại cảm nhìn thấy và mô tả hiện tượng phát hào quang,
đây là lần đầu tiên chúng ta thu được bằng chứng điện tử khách quan về tần số,
biên độ và thời gian khẳng định các nhận xét chủ quan của họ về hiện tượng tỏa
màu sắc.
Các tần số màu sắc tìm
được ở đây không sao chép các tần số của ánh sáng và sắc tố , nhưng điều đó
không phủ nhận phát minh nầy. Khi chúng ta nhận thức rõ ràng cái mà chúng ta
nhìn thấy dưới dạng màu sắc là những tần số được con mắt nắm bắt, được phân
biệt và cho một ký hiệu, thì bấy giờ không có gì chứng tỏ là các trung tâm chế biến
của mắt và não chỉ diễn giải màu sắc dưới dạng tần số cao Tiêu chuẩn chủ yếu
cho trải nghiệm màu sắc này là sự thể hiện thị giác. Tuy nhiên, với dụng cụ
tinh vi hơn, kỹ thuật ghi và xừ lý số liệu được cải tiến, thì những số liệu nàỵ
bước đầu tiên 1.500 Hz. Có thể sẽ nhanh chóng chứa đựng các tần số cao hơn.
BS Hunt cũng nói rõ rằng
"các luân xa thường xuyên mang những màu sắc đã định trong các tài liệu
siêu hình học, nghĩa là đỏ hỏa xà, da cam-hạ vị, vàng-lách, lục-tím, xanh-hy
vọng, tím-con mắt thứ ba và trắng đỉnh đầu. Hoạt động ở một vài luân xa dường
như làm giảm hoạt động tại một số luân xa khác. Luân xa tim luôn là luân xa
hoạt động mạnh nhất.
Các đối tượng có nhiều
trải nghiệm cảm xúc, hình ảnh và hồi ức đều liên kết với các vùng khác nhau
được điều khiển tâm thần. Những phát hiện nầy làm cho chúng ta tin chắc rằng
các ký ức về trải nghiệm được tích trữ trong các mô của thân thể".
Chẳng hạn khi hai chân
của người nào đó được điều khiển bằng tâm thần, anh ta có thể sống lại rõ ràng
các trải nghiệm về sự dạy dỗ đơn giản thời thơ ấu. Anh ta không những nhớ mà
còn sống lại điều nầy một cách xúc động. Nhiều khi bố mẹ có công dạy dỗ con cái
một cách đơn giãn trước khi trẻ tạo được mối liên kết não cơ để có thể kiểm
soát cơ vòng điều hòa sự bài tiết. Vì trẻ không thể kiếm soát được cơ vòng về
mặt sinh lý, nó sẽ bù lại bằng cách siết chặt các cơ bắp đùi. Điêù này tạo ra
nhiều căng thẳng trên thân thể. Nhiều khi căng thẳng đó giữ mãi suốt đời, hoặc
giữ cho đến khi được chữa trị chu đáo bằng điều khiển tâm thần hoặc bằng năng
lượng học sinh học.
Bấy giờ khi áp lực và
căng thẳng ở cơ được giải tỏa thì ký ức cũng được giải thoát theo. Một ví dụ
khác về duy trì ký ức áp lực là trạng thái hai vai bị bó mà người ta thường có.
Đó là do sợ hãi hoặc lo lắng ở đôi vai . Bạn có thể tự hỏi, cái mà bạn sợ sẽ
không đủ khả năng thực hiện là cái gì, hoặc cái gì mà bạn nghĩ sẽ xảy ra nếu
bạn không thành công là cái gì.
Kết luận
Nếu ta định nghĩa trường
năng lượng con người là tất cả các trường hoặc những cái phát ra từ thân thể
con người thì ta có thể thấy rằng nhiều thành phần mà ai cũng biết của trường
năng lượng con người đã được đo đạc trong phòng thí nghiệm. Đó là các thành
phần tĩnh điện, từ tính, điện từ, âm thanh, nhiệt và thị giác của trường năng
lượng con người.
Tất cả những số liệu đo
đạc phù hợp với các quá trình sinh lý hình tượng của thân thể và còn vươn quá
giới hạn những quá trình nầy để cung cấp cho ta một phương tiện nghiên cứu hoạt
động tâm thể.
Những số liệu đo dạc của
BS Hunt cho thấy nhữrng tần số xác định của các màu và của hào quang. Các tần
số nầy có thể có những phần trội cao hơn không ghi nhận được do những hạn chế
của trang thiết bị thí nghiệm có liên quan.
Những số liệu đo đạc
liệt kê trên đây cũng cho thấy trường năng lượng con người về bản chất và có
chuyển động tựa chất lỏng, cũng như luồng không khí hay dòng nước. Những hạt
nầy rất bé, thậm chí là hạ nguyên tử theo như một số nhà nghiên cứu. Khi tích
điện, các hạt nhỏ cùng nhau chuyển động trong những đám mây mà các nhà vật lý
thường gọi là plasma . Các plasma tuân theo một số định luật vật lý làm cho các
nhà vật lý đi đến chỗ coi chúng như trong trạng thái giữa năng lượng và vậl
chất. Nhiều đặc tính của trường năng lượng con người đo được trong phòng thí
nghiệm làm nảy ra khả năng hiện hữu của trạng thái thứ năm của vật chất mà một
số nhà khoa học gọi là “bioplasma”.
Những nghiên cứu nầy cho
thấy rằng mô hình thông thường của thân thể gồm các cơ quan (như cơ quan tiêu
hóa) là không đầy đủ. Cần phát triển một mô hình bổ sung dựa trên khái niệm
trường năng lượng cấu tạo. Mô hình trường điện từ phức tạp không đáp ứng đầy đủ
mục đích nầy. Nhiều hiện tượng tâm linh liên đới với trường năng lượng con
người như tiên tri hoặc nắm được thông tin về tiền kiếp, không thể lý giải bằng
trường điện từ.
Theo BS Valorie Hunt con
người có thể được nhìn với một khái niệm lượng tử về năng lượng xuất phát từ
bản chất tế bào nguyên tử của thân thể hoạt động, nó đi tắt qua mọi mô và mọi
hệ. Bà gợi ý rằng quan điểm toàn đồ về trường năng lượng con người là một quan
điểm đúng đắn. Khái niệm toàn đồ rõ nét lên trong nghiên cứu vật lý học và
nghiên cứu bộ não có thể cung cấp cho ta một quan điểm vũ trụ thực sự thống
nhất về thực tại, đòi hỏi phải giải thích lại mọi phát minh sinh học trên một
bình diện khác."
Trong Tập san Trí nhớ
của não, Marilyn Ferguson tuyên bố rằng " mô hình toàn đồ đã được mô tả
mẫu nổi bật", một lý thuyết trọn vẹn chắc chắn sẽ nắm bắt được mọi cuộc
sống phóng túng kỳ diệu của khoa học và tâm linh.
Cuối cùng đây là một lý
thuyết xe duyên sinh học với vật lý học trong một hệ thống mở.
Điểm lại Chương 5
1 Trường năng lượng con
người đã được đo như thế nào ?
2. Nhân loại được biết
về hiện tượng hào quang lần đầu tiên vào thời điểm nào ?
3. Hào quang lần đầu
tiên được quan sát thấy vào năm nào của thế kỷ 19 và do ai ?
4. Hiện tượng trường
năng lượng con người vượt qua điều mà khoa học ngày nay biết như thế nào ?
5. Từ quan điểm của khoa
học lý thuyết và thực nghiệm ngày nay, mô hình đúng đắn để giải thích hiện
tượng trường năng lượng con người là mô hình gì ?