Phong
thủy tồn tại trên hai nghìn năm mà cực thịnh là thời các triều nhà Minh, nhà
Thanh bên Tàu, vào khoảng năm 1369 đến đầu thế kỷ này.
Hai
khái niệm mà nhiều người hòa trộn thành một, hoặc là vô tình hay hữu ý không
phân biệt, đó là phong thủy và thuật phong thủy. Phong thủy là địa thế, địa
hình, là đất, là nước quanh ta. Phong thủy là môi trường sống mà con người tồn
tại trong đó. Thuật phong thủy là những luận lý, những suy nghĩ của con người
và cách thích ứng cuộc sống của con người khi nằm trong cái phong thủy ấy. Như
thế, phong thủy là tồn tại khách quan còn thuật phong thủy là sản phẩm của ý thức
liên quan đến phong thủy.
Phong
thủy còn có nghĩa rộng là những hoạt động nghiên cứu về thiên văn, về sao trời,
vũ trụ , về trái đất, về khí tượng, về địa thế làm nhà, đặt mồ mả cho nên phong
thuỷ vừa gần với con người lại vừa xa con người. Lý luận cơ bản của phong thủy
(kinh dịch, âm dương ngũ hành) thì rất trừu tượng, thuột ngữ sử dụng thì khác lạ
với ngôn từ dùng hàng ngày tạo ra cho phong thủy một dáng vẻ bí hiểm, đọc phong
thủy và nghe về phong thủy thấy một không khí sống và chết đan xen, đất trời
hòa nhập, rõ không ra rõ, mờ không ra mờ làm cho quần chúng tin thì có thể tin,
có thể không tin thì cũng sợ. Thầy phong thủy lại thêu dệt bao chuyện ly kỳ,
gán một số quan niệm phong thủy vào các sự kiện lịch sử, tô vẽ cho phong thủy
có bộ mặt thần bí.
Lý
luận và thực tiễn của phong thủy vô cùng phức tạp, để xem một thế đất đặt mộ,
phần lớn thày địa lý phải ở nhà gia chủ cả năm trời, sáng cơm rượu rồi đi ngắm
nghía đất trời rong ruổi ngoài đồng. Chiều về đọc sách (chẳng hiểu sách gì), khểnh
duỗi tư duy để rồi nhập nhoạng tối lại cơm rượu. Năm nay người chết, xem đất một
nâm chờ năm sau cải táng đặt vào nơi đất chọn. Thành kính và đợi chờ đất phát.
Chờ mãi không thấy phát lại ngẫm nghĩ, suy tính hay là tại mình tâm chưa thành,
lòng chưa kính hay thậm chí hối vì đãi thày chưa hậu.
Ngay
vài năm gần đây trong câu chuyện làm nhà ở ta, chắc không ít người cạy nhờ thày
phong thủy. Vào những năm 1991- 1993 nhà đất vào cơn thịnh vượng thì nhiều người
làm nên ăn ra tưởng đâu như vì nhờ thày mà phát. Nhưng sang 1995-1996 nhà vay
tiền làm, những mong tây thuê để thu hồi vốn nhưng biển treo “ house for
rent" cả thời gian dài dài chẳng ai ngó hỏi. Nợ vốn chất chồng, lãi mạ đẻ
lãi con, chắc cũng chẳng ai đi trách thày phong thủy. Thày phong thủy nào chẳng
nói như tép nháy, lại đệm những từ như minh đường, huyền vũ, bạch hổ, thanh
long, chủ nhà chỉ còn cách gật đầu lia lịa xuýt xoa khen thày và tự hào mình đã
được đặt ngang mình cùng thày đạo cao đức trọng.
Nước
Trung hoa từ sau 1949 thuật phong thủy bị đả kích nặng nề, không dám công khai
lộ diện nhưng nó lại được Hồng công, đài loan nâng đỡ. Nó cứ dai dẳng tồn tại
có lúc rõ hình, có lúc lu mờ, kín đáo. Mấy năm gần đây, trong không khí cải
cách chung về kinh tế ở Trung quốc người ta lại nghiên cứu và bàn luận về phong
thủy trên sách vở.
Điều
khẳng định là nó tồn tại dai dẳng. Vậy cái lý để nó tồn tại là cái gì. Có người
xếp phong thủy như một hiện tượng văn hóa, vì nó sống trong phần hồn của con
người.
Trong
phong thủy và thuật phong thủy có cái lý giải được theo khoa học là địa hình, địa
thế làm nhà chịu ảnh hưởng của địa chất công trình, địa chất thủy văn, vi khí hậu.
Xem thế đất làm nhà chính là chọn cho ngôi nhà theo các điều kiện thuận lợi về
phương vị, khí hậu, địa chất công trình tốt, địa chất thủy văn phù hợp. Đây
chính là khâu điều tra cơ bản để chọn địa diểm xây dựng. Từ môi trường và khí hậu
tốt mà chủ nhà có sức khỏe tốt, tâm lý tốt, ăn nên làm ra, đấy là những nhân tố
tích cực.
Làm
cho phong thủy thần bí, võ đoán như thế đất này thì đau mắt, thế đất kia con
gái lại góa chồng là điều chưa hẳn đã dễ tin.
Đọc
phong thủy, tìm hiểu phong thủy để tìm ra yếu tố để nó tồn tại như hiện tượng
văn hóa, dùng nhãn quan khoa học để khen cái được, chê cái bịa đặt là điều cần
làm. Đối chiếu những điều đã có trong phong thủy và thuật phong thủy, gọn đục
khơi trong với phong thủy là điều có thể làm được.
Phong
thủy gắn liền với đất đai, với phương vị. Tri thức về phong thủy không thể tách
rời với những khái niệm cơ bản về phương vị, hiểu theo cách của người Á đông.
Để
xác định phương vị khi đi khảo sát đất đai, nghề phong thủy dùng dụng cụ gọi là
la bàn. La bàn lớn gọi là La kinh. La bàn nhỏ gọi là trốc long. Trên la bàn, la
kinh hay trốc long vẽ nhiều vòng tròn và các vạch xuyên tâm chia phương vị.
Đời
Minh có Từ chi Mạc soạn “La kinh đỉnh môn trâm" có 2 quyển chỉ nam trâm.
Sách này cho rằng la kinh lúc đó có 24 hướng, bỏ quên 12 chi của tiên thiên,
nên thêm 12 chi, chia làm 33 tầng, trình bày bằng chữ và hình vẽ. Ngoài ra,
sách còn một phụ lục do Chu Chi Tương vẽ.
Thẩm
Thăng đời Minh cũng soạn "La kinh tiêu nạp chính tông" bàn về tiêu nạp
khí trong 72 long mạch.
Chính
giữa la bàn gắn một kim nam châm có trụ quay. Phần dưới kim là các vòng tròn đồng
tâm và những tia đi qua trục kim nam châm ghi phương vị. Trong các vòng tròn
(thường là ba vòng) thì vòng trong cùng là vòng địa bàn, vòng giữa là vòng nhân
bàn và vòng ngoài cùng là vòng thiên bàn. La kinh có thể có tới 13 vòng.
Nếu
chỉ có ba vòng thì vòng thiên bàn dùng xem hướng nước tụ, nước chảy. Vòng địa
bàn để ấn định long mạch. Vòng nhân bàn để luận sự tốt xấu của các gò đống (mà
phong thủy gọi là các sa). Vòng tròn được chia thành 24 ô, mỗi ô ứng với 15o
(toàn vòng 360o).
Nếu
lấy vòng địa bàn làm gốc thì vòng thiên bàn lệch về phải nửa ô, và vòng nhân
bàn lệch về trái nửa ô.
Tại
tâm thường làm một vòng nhỏ, chia thành hình âm, dương. Nhận thức là Thái cực
sinh Lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, tứ tượng là Thái dương, Thái âm, Thiếu
dương, Thiếu âm. Đó chính là bốn Phía Đông/Tây/Nam/Bắc. Cách xác định phương vị trước thời Tần chép:
Khi đi, trước mặt là chu tước, thì sau lưng là huyền vũ, còn bên tả là thanh
long thì bên hữu, bạch hổ, điều này có nghĩa là, trước mặt là nam thì sau lưng
là bắc, bên trái là đông thì bên phải là tây.
Chính
Bắc ghi chữ Tý, chính Nam ghi chữ Ngọ, chính đông ghi chữ Mão, chính Tây ghi chữ
Dậu. Kể theo chiều kim đồng hồ thì lần lượt 24 ô như sau: Mão, Ất, Thìn, Tốn, Tỵ,
Bính, Ngọ, Đinh, Mùi, Khôn, Thân, Canh, Dậu, Tân, Tuất, Càn, Hợi, Nhâm, Tý,
Quý, Sửu, Cấn, Dần, Giáp.
Chuyện
lưu truyền, khi Quản Lộ (đời Tam quốc) đi về phía Tây gặp mộ Vô Hưu Kiệm thì
than thở, không vui mà nhận xét: Cây cối tuy nhiều mà từ lâu không có bóng, bia
mộ lời ghi hoa mỹ nhưng không có hậu để giữ gìn, huyền vũ khuất mất đầu, thanh
long không có chân, bạch hổ đang ngậm xác chết, chu tước đang rên rỉ, mối nguy
đổ phục khắp bốn bề, họa diệt tộc ắt là sắp đến, không quá hai năm sẽ ứng nghiệm.
Quách
Phác trong "Táng kinh" dặn rằng: Thanh long bên trái, bạch hổ bên
phái, chu tước đằng trước, huyền vũ đằng sau, muốn được mồ yên mả đẹp thì huyền
vũ phải cúi đầu, chu tước dang cánh, thanh long uốn khúc, bạch hổ quy thuận. Khi
nhìn thế đất đồng thời phải nhìn màu đất. Nếu ta thăm đàn tế xã tắc ở công viên
Trung Sơn Bắc Kinh thì thấy phương đông, thanh long, đất màu xanh cây cỏ,
phương Tây Bạch hổ màu đất trắng bạc, phương Nam chu tước đất đỏ màu hồng,
phương Bắc huyền vũ đất có màu đen. Giữa đàn cúng, đất màu vàng tượng trưng cho
Người.
Tứ
tượng sinh Bát quái, ngoài tứ tượng đã có lặp lại trong bát quái còn thêm bốn hướng
của Bát quái là: Càn, Khôn, Cấn, Tốn. Đó chính là các hướng Tây bắc Tây nam, Đông
nam, Đông bắc.
Như
thế, phương đông có Giáp Mão Ất; đông nam có Thìn, Tốn, Tỵ; Nam có Bính, Ngọ, Đinh;
Tây Nam có Mùi, Khôn, Thân; Tây có Canh, Dậu, Tân; Tây Bắc có Tuất, Càn, Hợi; Bắc
có Nhâm, Tý, Quý; đông bắc có Sửu, Cấn, Dần.
Các
hướng thuộc địa chi là: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất,
Hợi (12 hướng dịa chí). Tám hướng thuộc thộp can là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh,
Tân , Nhâm, Quý ( bỏ Mậu, Kỷ trong thập can).
Các
hướng xếp đối xứng gọi là bát sơn đối diện gồm: Càn-Tốn, Khảm-Ly, Cấn-Khôn, Chấn-đoài.
Bắc thuộc Khảm, đông thuộc Chấn, Nam thuộc Ly, Tây thuộc Đoài.
Phân
vị theo Ngũ hành thì chính giữa là hành Thổ, Bắc thuộc hành Thủy, đông thuộc
hành Mộc, Nam hành Hỏa, Tây hành Kim. Còn cách gọi khác: Thủy là Nhuận hạ, Hỏa
là Viên thượng, Mộc là Khúc trực, Kim là Tòng cách, Thổ là Gia tường.
Trên
đây ta chỉ xét đến Chính ngũ hành dùng phổ biến trong phong thủy. Ngoài ra còn
Bát quái ngũ hành và Hồng phạm ngũ hành cũng là loại ngũ hành thường dùng. Còn
Tứ kinh ngũ hành, Tam hợp ngũ hành, Tứ sinh ngũ hành, Song sơn ngũ hành, Huyền
không ngũ hành, Hướng thượng ngũ hành, Nạp âm ngũ hành ... không thể kể hết được.
Cụ
thể của phong thủy thì thế đất tròn là Kim, thế dài là Mộc, thế nhọn là Hỏa, thế
vuông là Thổ, thế như sóng gợn là Thủy.
Khi
chọn đất phải dựa vào ngũ hành tương sinh mà luận đoán. Tránh ngũ hành tương khắc
là điều thầy phong thủy tâm niệm hàng ngày.
Theo
Hồng Vũ cấm thư luận về ngũ hành tương ngộ thì thủy giao thủy, nam nữ tất dâm.
Phương Bắc thuộc Thủy, nếu có nước thấm nhập từ phương Bắc vào khu đất ta ở hay
mộ phần thì con cái không ổn thỏa. Nếu dựng nhà quay mặt hướng Nam thì sau nhà
là huyền vũ. Huyền vũ phải là thế đất nhô cao, có gò thoải mới thuận, mới đẹp.
Gò thoải là thế huyền vũ cúi đầu. Nếu sau nhà lại là đầm nước hoặc vách núi dựng
thì có khác gì huyền vũ mất đầu mà Quản Lộ chê bai ở trên.
Phương
Nam là Hỏa mà thế đất lại nhọn khác nào như lửa gặp lửa, theo phong thủy thì ở
đất ấy hay gặp điều kiện tụng. Phương Tây của miếng đất đối tượng xem xét là
Kim mà có thế tròn (Kim) thì gia chủ sẽ giàu có, thịnh vượng. Phía đông nhà là
hướng Mộc lại có thế đất dài là mộc thì mộc mộc tương sính, trai gái trong nhà
giàu sang, phú quý.
Ngoài
ra quan hệ giữa Thiên, địa. Nhân còn có quy ước: Tý là Nhân huyệt, Cấn là Quỷ
môn, Tốn là địa hộ, Bính là địa huyệt, Khôn là Nhân môn, Canh là Thiên huyệt,
Càn là Thiên môn.
Trong
quá trình xem xét phương vị thì tiên thiên bát quái của Phục hi để phối hợp âm
Dương. Hậu thiên bát quái của Văn vương để xêp các Hào Tượng.
Ra
đến địa hình cụ thể thì khu đất có thế bằng phẳng là dương thì gò đống nổi cao
lại là âm, đất sơn cước nhiều gò cao núi lớn là âm thì thung lũng bãi bằng
trong khung cảnh đồi núi lại là dương. Chọn thế đất làm nhà hay đặt mộ trước hết
phải trọng khâu cân bằng âm dương, đất sơn cước cường dũng nên chọn làm nhà, đặt
mộ ở nơi có mạch nhỏ (long gầy), đất bình dương bằng phẳng nên chọn vị trí hơi
cao để tọa lạc (khởi đột). Khu đốt đẹp bên trái có thanh long (mạch nước), bên
phải có bạch hổ (đường dài), thế đất đằng trước có ao đầm tỏa rộng (chu tước), đằng
sau có gò tròn tựa lưng (huyền vũ). Long là dương, Hổ là âm. Long-Hổ tương nhượng
thì gia đình hòa thuận, trai gái xum vầy.
Núi
chủ tĩnh (đứng yên) là âm thì nước chảy (chủ động) là dương. Thế đất đẹp là thế
đất có núi chủ tĩnh quay đầu như động. Nước chủ động lửng lờ nở rộng như chảy,
như không, lưu luyến dùng dằng. Núi và nước hiền hòa bên nhau, cặp kè với nhau,
bảo vệ nhau, nuôi dưỡng nhau là thế đất đẹp. Kiểu luận lý như thế là dựa vào cơ
sở trong dương có âm, trong âm có dương, điều hòa âm dương là điều quan trọng.
Luận âm dương rồi toán ngũ hành sao cho mọi suy tính không trùng điều xấu.
Chọn
các thế đất, cách chọn hướng suy cho cùng sau khi loại bỏ những điều thần bí và
mê tín thì cũng là chọn địa điểm hợp với điều kiện địa hình, địa chất công
trình, địa chất thủy văn, vi khí hậu cho môi trường sống được thỏa đáng.
Thuật
phong thủy nghiên cứu những vận động tự nhiên của môi trường sống của con người
để mưu cầu sự tiện nghi cho cuộc sống gắn liền với thiên nhiên. Bây giờ đất chật,
người đông lấy đâu ra đất rộng để tìm thanh long, bọch hổ. Gặp hướng nghịch thì
dùng giải pháp che nắng, chắn gió. Nóng bức quá thì bật điều hòa nhiệt độ.
Phong
thủy ghi lại dấu của một hiện tượng văn hóa xưa. Đời nay biết mà xem người xưa
mưu cầu tiện nghi cuộc sống ra sao. Thực ra thì người xưa chế tác ra thuật
phong thủy cũng chỉ là cách tìm hiểu thiên nhiên và sự vận động của thiên nhiên
rồi tìm cách hạn chế tác động tiêu cực của thiên nhiên để cuộc chung sống với
môi trường sao có lợi cho con người. Nếu loại những điều mê tín và sự lợi dụng
phong thủy lòe bịp thiên hạ thì phong thủy đâu có phải là dị đoan.