CHƯƠNG 1
TRẢI NGHIỆM CHỮA TRỊ
PHẦN
I
SỐNG
TRÊN HÀNH TINH NĂNG LƯỢNG
Tôi vẫn cho rằng sự xúc cảm ngưỡng mộ thiêng liêng đối với vũ
trụ là niềm khích lệ nghiên cứu khoa học mạnh nhất và cao nhã nhất.
Albert Einstein.
Trong những năm thực hành chữa trị tôi được ưu tiên làm việc với
nhiều người thú vị. Đây là một số trong những người đó cùng câu chuyện về họ,
làm cho ngày tháng trong cuộc đời của người thầy chữa trị trọn vẹn biết bao.
Bệnh nhân đầu tiên của tôi vào một ngày tháng mười năm 1984 là một
chị trên hai mươi lăm tuổi tên Jenny. Jenny là một cô giáo hoạt bát, cao khoảng
5 feet 5 in ( 1 foot = 0,8048 m; 1 inch = 2,54 cm – ND), đôi mắt to màu xanh
lơ, tóc huyền. Bè bạn gọi chị là Oải hương Phu nhân, vì chị yêu màu hoa Oải
hương (màu tím nhạt – ND) và thường xuyên mặc áo quần màu nầy. Jenny cũng có
một cửa hàng kinh doanh hoa hoạt động ngoài giờ và xếp các bó hoa cưới hoặc hoa
trang trí hội hè rất trang nhã. Vào thời gian đó, chị đã xây dựng gia đình được
vài năm với một nhà quảng cáo thành đạt. Jenny bị sẩy thai mấy tháng trước và
không còn khả năng có thai. Khi Jenny tới bác sĩ để khám xem tại sao mình không
thể thụ thai thì chị nhận được vài tin tức không tốt lành. Sau nhiều xét nghiệm
và phát biểu của một vài thầy thuốc khác, người ta đặt chỉ định phẫu thuật cắt
dạ con càng sớm càng tốt. Có những tế bào bất thường trong dạ con, ở chỗ bám
của rau thai, Jenny lo sợ và quẩn trí. Hai vợ chồng chị đã chờ đợi đến khi tài
chính đủ mạnh có thể giúp đỡ gia đình, nhưng bây giờ thì xem chừng không còn
khả năng đó.
Lần đầu tiên Jenny đến với tôi, vào tháng tám năm ấy, chị không hề
kể chuyện bệnh tật mà chỉ bảo: “Em cần sự giúp đỡ của chị. Chị hãy nói cho em
biết những gì chị nhìn thấy trong con người em. Em phải quyết định một việc hệ
trọng. "
Trong buổi chữa trị, tôi sử dụng tri giác cao cấp của mình nhìn
vào trường năng lượng (hào quang) của chị. Tôi “thấy” một số tế bào bất thường
trong dạ con ở phía dưới trái. Cùng lúc đó tôi “thấy” cả những tình huống xung
quanh việc sẩy thai. Các tế bào bất thường này khu trú tại vị trí bám của rau
thai. Tôi cũng “nghe được” những lòi lẽ mô tả hoàn cảnh của Jenny và điều cần
làm về vấn đề nầy. Lời phán bảo nói rằng Jenny cần phải bỏ ra một tháng để đến
bên bờ đại dương, dùng một số vitamin đặc hiệu, kiêng khem một vài loại thức ăn
và thiền định hằng ngày, mỗi ngày ít nhất hai giờ, sau khi tự chữa một tháng
như vậy, chị phải trở về cơ sở y tế và xét nghiệm lại. Tôi được cho biết rằng
việc chữa trị hoàn tất và chị không phải trở lại chỗ tôi. Trong buổi chữa đó,
tôi nhận được thông tin về tâm trạng của chị và cách thức tác động của tâm
trạng này lên tình trạng mất khả năng tự chữa trị của chị. Chị căm ghét bản
thân về chuyện sẩy thai. Hậu quả là chị đặt một cái "stress" lên
người mình và ngăn cản thân thể tự chữa trị sau khi sẩy thai. Tôi cũng nghe
phán bảo (và điều này là phần gay go cho tôi) rằng trong ít nhất là một tháng
chị ta không được đi khám bác sĩ khác bởi vì việc chẩn đoán nầy nọ và việc thúc
ép cắt dạ con chỉ tổ làm tăng them stress mà thôi. Lòng chị tan vỡ vì mong có
đứa con mà không được. Chị đã khuây khoả phần nào khi rời chỗ làm việc của tôi,
chị nói chị nhất định sẽ suy nghĩ them về mọi chuyện đã diễn ra trong buổi
chữa.
Tháng mười, khi Jenny trở lại, trước tiên chị ôm chặt lấy tôi rồi
tặng tôi một bài thơ ngắn lời lẽ dịu dàng để cám ơn. Các xét nghiệm của chị
bình thường. Chị đã nghỉ cả tháng tám để trông nom con cái cho mấy người bạn ở
Fire Island. Chị vẫn ăn kiêng, dùng vitamin và dành nhiều thời gian một mình
thực hành tự chữa trị. Chị quyết định chờ thêm vài ba tháng nữa rồi sẽ thử xem
có mang thai được không. Một năm sau, tôi được biết Jenny đã sinh một cháu trai
khỏe mạnh .
Bệnh nhân thứ hai của tôi là Howard, cũng đến vào đúng ngày tháng
mười đó. Ông là bố của Mary, một bệnh nhân được tôi chữa cách đó ít lâu, Mary
trước đây được chẩn đoán có dấu hiệu tiền ung thư ở vú, chữa khoảng sáu buối
thì hết. Chị thích công việc của tôi và đều đặn gởi bệnh nhân đến chỗ tôi.
Howard đã gặp tôi mấy tháng trước. Ông là công nhân hưu trí. Làm
việc với ông rất thú vị. Lần đầu tiên đến chỗ tôi, ông xanh xao và thường xuyên
bị tim. Khó khăn lắm ông mới bước qua được căn phòng mà không thấm mệt. Sau đợt
chữa trị thứ nhất, nước da ông hồng hào và hết đau. Sau hai tháng được chữa trị
hàng tuần, ông đã có thể khiêu vũ, Mary và tôi cùng nhau phối hợp việc chữa trị
bằng cách đắp lên tay ông các thứ cỏ thuốc do một ông thầy lang kê đơn để chữa
các tổn thương trên động mạch. Ngày hôm đó tôi cũng cân bằng và tăng lực cho
trường năng lượng của ông. Các bác sĩ và bạn bè đều thấy rõ rệt ông đã khá hơn.
Một bệnh nhân khác hôm đó đến chỗ tôi là Ed. Lần đầu tiên anh đến
chỗ tôi vì có vấn đề ở cổ tay. Các khớp ở chi trên và cổ tay anh ngày càng yếu.
Anh cũng cảm thấy đau lúc cực khoái giao hợp. Trước đó ít lâu, anh thấy lưng
yếu đi, và bây giờ tay yếu dần đến mức anh không thể cầm nổi một vật gì, thậm chí
vài cái đĩa. Trong lần chữa đầu tiên, qua trường hào quang của anh, tôi “thấy”
xương cụt bị tổn thương khi anh mới khoảng mười hai tuổi; trong thời gian bị
thương nầy, anh có nhiều rối loạn phải giải quyết về các cảm giác tình dục nảy
sinh vào tuổi dậy thì. Tai nạn làm giảm những cảm giác nầy và anh đã chịu đựng
được tốt hơn.
Xương cụt của anh bị kẹt bên trái và không thể chuyển động bình
thường để tham gia vào việc bơm dịch não tủy theo đường đi bình thường của nó.
Điều đó gây nên sự mất cân bằng và suy nhược nghiêm trọng trong toàn bộ hệ
thống năng lượng. Bước tiếp theo trong quá trình thoái hoá này là suy yếu phần
lưng dưới, rồi lưng giữa, sau đó là phần lưng trên. Mỗi lần anh ta suy yếu do
thiếu dòng chảy năng lượng ở một bộ phận nào thì bộ phần khác tìm cách bù lại
suy yếu đó. Anh bắt đầu chống lại sức căng xảy ra ở các khớp của chi trên, và
cuối cùng các khớp chịu thua và suy yếu. Toàn bộ quá trình suy yếu kéo dài
nhiều năm.
Ed và tôi cùng tiến hành một quá trình chữa trị hữu hiệu trong vài
tháng . Đầu tiên tôi thao tác với dòng chảy năng lượng để làm cho xương cụt hết
bị kẹt, ngay ngắn trở lại, sau đó tăng cường và cân bằng dòng chảy năng lượng
của anh. Sức lực anh dần dà trở lại như cũ. Trưa hôm ấy anh ta chỉ còn bị yếu
chút ở cổ tay trái. Nhưng trước khi chú trọng đến điều đó, tôi lại cân bằng và
tăng lực cho toàn bộ trường năng lượng của anh. Sau đó tôi dành thêm thời gian
tác động cho năng lượng chữa trị tuôn chảy vào cổ tay.
Bệnh nhân cuối cùng của tôi trong ngày hôm ấy là Muriel, nghệ sĩ,
vợ của một nhà phẫu thuật nổi tiếng. Đây là lần thứ ba chị hẹn gặp tôi. Ba tuần
trước chị đã đến chỗ tôi với một tuyến giáp rất to. Trong lần đến gặp đầu tiên
đó, tôi sử dụng tri giác cao cấp của mình để thu thập thông tin về hoàn cảnh
của Muriel. Tôi thấy rằng tuyến giáp của chị to không phải do ung thư, và chỉ
với hai lần chữa phối hợp với thuốc men mà bác sĩ đã kê cho chị, chỗ tuyến giáp
to ra đã biến mất. Tôi thấy không cần mổ xẻ . Chị xác nhận rằng chị đã khám một
vài bác sĩ và họ đã kê cho chị thuốc làm co tuyến giáp. Chị nói thuốc đã làm
cho tuyến giáp nhỏ đi ít nhiều nhưng chị vẫn cần đến phẫu thuật và trường hợp
của chị có thể là ung thư. Cuộc mỗ được dự định tiến hành một tuần sau lần gặp
thứ hai. Tôi chữa riêng cho chị hai lần trong tuần. Đến hẹn chị tới bệnh viện
để mổ thì các bác sĩ hết sức ngạc nhiên, không cần phải mổ nữa. Ngày hôm đó chị
trở lại để yên trí xem mọi cái đã hồi phục lại như thường chưa. Đã.
Những sự kiện có vẻ kỳ lạ nầy xảy ra như thế nào? Tôi làm gì để
giúp đỡ những con người này? Quá trình mà tôi sử dụng mệnh danh là chữa bệnh
thao tác bàn tay, chữa bệnh bằng niềm tin hay chữa bệnh bằng tâm linh. Hoàn
toàn không phải là một quá trình kỳ lạ, trái lại rất chân phương dù cho nhiều
khi khá phức tạp. Nó là một phương thức cân bằng lại trường năng lượng mà tôi
gọi là trường năng lượng con người vốn hiện hữu xung quanh chúng ta.
Ai cũng có một trường năng lượng hay là hào quang bao quanh và
thâm nhập vào thân thể. Trường năng lượng này kết hợp chặt chẽ với sức khỏe.
Tri giác cao cấp là phương thức lĩnh hội sự vật vượt qua phạm vi thông thường
của giác quan con người. Nhờ nó, con người có thể nhìn, nghe, ngửi, nếm, thấy
và xúc chạm những sự vật mà bình thường không cảm nhận được. Tri giác cao cấp
là một kiểu “nhìn thấy” trong đó bạn thấy một bức tranh trong óc mà không cần
sử dụng thị giác thông thường. Nó không phải là tưởng tượng. Đôi khi nó được
coi như minh triết. Tri giác cao cấp phát hiện ra thế giới động lực các trường
năng lượng sống tương tác lỏng ở xung quanh và xuyên qua mọi vật. Phần lớn cuộc
đời tôi như ở giữa một cuộc khiêu vũ với cả đại dương năng lượng sống động
trong đó con người tồn tại. Qua cuộc khiêu vũ đó, tôi đã phát hiện ra rằng năng
lượng ấy truyền sức mạnh cho ta, nuôi dưỡng ta, cho ta cuộc sống. Ai cũng cảm
thấy nặng lượng bên cạnh mình; ta là của nó, nó là của ta.
Bệnh nhân và học trò của tôi hỏi rằng tôi bắt đầu nhìn thấy trường
năng lượng xung quanh mọi người từ bao giờ? Tôi bắt đầu thấy nó là công cụ có
ích từ khi nào? Thế nào là có khả năng nhận ra sự vật vượt qua giới hạn của các
giác quan con người? Trường hợp của tôi là đặc biệt hay có thể học hỏi để được
như vậy?
Nếu thế thì họ có thể làm gì để mở rộng tri giác của chính mình,
và điều nầy có giá trị như thế nào đối với cuộc đời của họ? Để trả lời được
trọn vẹn các câu hỏi nầy, tôi phải quay lại buổi ban đầu.
Tuổi thơ của tôi rất bình dị. Tôi lớn lên trong một trang trại ở
Wisconsin. Vì không có nhiều bạn chơi trong vùng, tôi thường tha thẩn một mình.
Tôi ngồi một mình trong rừng hàng giờ, hết sức im lặng, chờ những con vật nho
nhỏ bước đến với tôi. Tôi tập hòa mình vào xung quanh. Không phải là mãi về sau
tôi mới bắt đầu hiểu hết ý nghĩa của những khoảng thời gian im lặng và chờ đợi
đó. Giữa những khoảnh khắc yên tĩnh trong rừng, tôi đi vào một trạng thái bành trướng ý thức
trong đó tôi có khả năng thấy được những sự vật vượt ra khỏi giới hạn trải
nghiệm thông thường của con người.
Tôi nhớ là đã biết được từng con vật nhỏ trong rừng mà không cần
nhìn. Tôi có thể cảm nhận được trạng thái đó. Khi tôi tập bịt mắt đi lại trong
rừng, tôi cũng cảm nhận được cây cối trước khi tự tay tôi chạm tới. Tôi thấy
rằng cây cối hiện ra to hơn là khi nhìn bằng mắt. Cây cối có trường năng
lượng sống bao quanh, và tôi thấy các trường năng lượng đó. Về sau tôi tập nhìn
trường năng lượng của cây và của các động vật nhỏ. Tôi phát hiện ra rằng mọi
vật đều có trường năng lượng bao quanh, giống như ánh sáng của ngọn nến. Tôi cũng bắt đầu nhận
thấy rằng mọi vật liên kết với nhau bằng các trường năng lượng nầy và không một
không gian nào hiện hữu mà lại không có trường năng lượng. Mọi vật, kể cả tôi,
đều sống giữa đại dương năng lượng.
Đối với tôi, điều đó không phải là phát hiện lý thú, mà chỉ đơn
giản là trải nghiệm của mình, cũng tự nhiên như nhìn thấy con sóc đang ăn quá
đấu trên cành cây vậy. Tôi không hề công thức hóa những trải nghiệm nầy vào bất
cứ lý thuyết nào nói về cung cách hoạt động của thế giới. Tôi chấp nhận mọi thứ
mình nhìn thấy trong trạng thái hoàn toàn tự nhiên, cho rằng ai ai cũng biết,
sau đó tôi quên.
Lúc bước vào tuổi vị thành niên, tôi thôi không vào rừng nữa. Tôi
bắt đầu quan tâm tới cung cách hoạt động của các sự vật và tại sao chúng lại
như thế. Tôi thường đặt câu hỏi với mọi vật để tìm ra trật tự và để hiểu thế
giới hoạt động như thế nào. Tôi vào trường đại học, nhận bằng cử nhân khoa học
về Vật lý lưu uyển, rồi làm công tác nghiên cứu nhiều năm cho Cơ quan hàng
không vũ trụ NASA. Về sau tôi học tập và trở thành cố vấn. Không phải cho đến khi
tôi làm cố vấn một số năm tôi mới bắt đầu nhìn thấy màu sắc quanh đầu mọi người
và nhớ tới những trải nghiệm trong rừng thời thơ ấu. Lúc bấy giờ tôi nghiệm
ra rằng các trải nghiệm đó đã mở đầu cho tri giác cao cấp hay sức nhìn thấu thị
của mình. Những trải nghiệm tuổi thơ thú vị và bí mật ấy cuối cùng đã dẫn đến
khả năng chẩn đoán và chữa trị của tôi.
Khi nhìn lại, tôi có thể thấy mô hình phát triển các khả năng của
tôi bắt đầu lúc lọt lòng. Cứ như là đời tôi đã được bàn tay vô hình nào đó dẫn
dắt tới và đi qua từng trải nghiệm theo kiểu dẫn từng bước, rất giống kiểu dạy
ở trường học – trường học đường đời như ta vẫn nói.
Trải nghiệm trong rừng giúp cho việc mở rộng các giác quan của
tôi. Sau đó, việc học tập ở trường đại học giúp phát triển tư duy lô gíc. Việc rèn luyện để
thành người cố vấn đã khai mở tầm nhìn, khai mở trái tim tôi ra toàn nhân loại. Cuối cùng, việc rèn
luyện tâm linh (sau này tôi sẽ luận bàn về vấn đề nầy) làm cho tôi tin vào
những trải nghiệm khác thường của mình để mở rộng tâm trí mà chấp nhận là “có
thật”. Bấy giờ tôi bắt đầu tạo ra một khuôn khổ để nhờ đó mà hiểu thấu các trải
nghiệm nầy. Dần
dà tri giác cao cấp và trường năng lượng con người trở nên các bộ phận hợp
thành của đời tôi.
Tôi tin tưởng vững chắc rằng chúng trở thành một phần cuộc đời của
bất kỳ ai. Để
phát triển tri giác cao cấp, cần phải đi vào một trạng thái bành trướng ý thức. Có nhiều phương pháp
thực hiện việc nầy. Thiền định nhanh chóng trở thành nổi tiếng. Thiền định có
thể thực hành bằng nhiều cách, điều quan trọng là tìm ra cách thích hợp nhất
đối với bạn.
Trong phần sau của cuốn sách, tôi sẽ gợi ý cho bạn một vài cách
để bạn có thể tùy ý lựa chọn. Tôi cũng thấy rằng bạn có thể đi vào trạng thái
bành trướng ý thức bắng cách tản bộ, dạo chơi, câu cá, ngồi trên đụn cát ngắm
sóng vỗ vào bờ hoặc ngồi trong rừng như tôi thuở nhỏ. Bạn đã tiến hành việc
đó như thế nào, dù bạn gọi là thiền định hay mơ mộng, hay gì nữa? Điều quan
trọng nhất ở đây là dành được đủ thời gian lắng nghe bản thân mình - thời gian
để làm im ắng cái tâm trí huyên náo cứ liên tục nói về điều bạn cần làm, về
cung cách bạn đã thắng được lý lẽ nọ, về điều mà bạn vẫn làm, về cái mà bạn cho
là sai, v.v. và v.v. Khi tiếng líu lo không dứt đó bị cắt thì một thế giới mới
trọn vẹn của thực tại hài hòa êm ái mở ra trước mắt bạn. Bạn bắt đầu hòa mình
vào xung quanh, như tôi đã từng làm trong rừng. Cũng lúc đó, nhân cách của bạn
không bị lãng quên mà được đề cao.
Quá trình hòa mình vào xung quanh là một phương thức khác để mô tả
nhận thức mở rộng đang trải nghiệm.
Chẳng hạn, hãy lưu ý lần nữa đến cây nến và lửa ngọn nến. Thông
thường ta đồng nhất hóa bản thân như một vật thể (sáp và bấc) với ý thức (ngọn
lửa). Khi ta đi vào trạng thái bành trướng ý thức, ta nhận thấy ta cũng như ánh
sáng phát ra từ ngọn lửa đó. Ánh sáng bắt đầu chỗ nào và ngọn lửa kết thúc ở
đâu? Đấy dường như là một dòng kẻ. Nhưng khi nhìn kỹ hơn, bạn có biết chính xác
đó là chỗ nào không?
Ngọn lửa bị ánh sáng thâm nhập hoàn toàn. Ánh sáng trong phòng,
ngoài ánh sáng ngọn nến (đại dương năng lượng), có thâm nhập ngọn lửa không?
Có. Ánh sáng trong phòng bắt đầu ở đâu và ánh sáng ngọn nến kết thúc ở đâu?
Theo vật lý học, không có ranh giới cho ánh nến; nó vươn tới vô
tận. Vậy thì ranh giới cuối cùng của ta ở đâu?
Trải nghiệm của tôi về tri giác cao cấp, kết quả của bành trướng
ý thức, là không có ranh giới. Tôi càng bành trướng ý thức thì tri giác cao cấp của tôi càng mở
rộng, tôi càng có khả năng hơn trong việc nhìn thấy thực tại vốn ở sẵn đấy rồi
nhưng trước đây nằm ngoài tầm giác quan của mình.
Nhờ tri giác cao cấp của bản thân mở rộng, thêm nhiều thực tại đi
vào tầm mắt. Buổi đầu tôi chỉ nhìn thấy được những trường năng lượng thô xung
quanh đồ vật: chỉ khoảng trên dưới 1 in cách mặt da. Khi đã thành thạo hơn, tôi
có thể nhìn thấy trường nầy vượt quá mặt da xa hơn nữa nhưng rõ ràng là một
chất mịn hơn hoặc một thứ ánh sáng kém mạnh hơn. Mỗi lần tôi nghĩ là mình đã
tìm ra ranh giới thì một thời gian sau tôi lại thấy vượt ra xa hơn ranh giới đã
tìm ra.
Đường ranh giới ở đâu? Tôi kết luận rằng thật dễ dàng hơn khi nói
là chỉ có các lớp: lớp của ngọn lửa, sau đó là ánh sáng của ngọn lửa, rồi đến
ánh sáng của căn phòng. Thật khó mà phân biệt được từng ranh giới. Muốn thấy được từng
lớp phía ngoài đòi hỏi phải tăng cường bành trướng ý thức và hòa đồng tri giác
cao cấp một cách tinh vi hơn. Khi trạng thái bành trướng ý thức của bạn phát triển thì ánh
sáng mà trước đây bạn nhìn thấy lờ mờ nầy sẽ rạng lên và trở thành dễ xác định.
Qua nhiều năm dần dần phát triển tri giác cao cấp, tôi sưu tập các
quan sát của mình. Phần lớn các quan sát nầy được tiến hành trong 15 năm làm cố
vấn. Vốn được đào tạo về vật lý học, tôi hoài nghi khi lần đầu tiên bắt đầu
“nhìn thấy” hiện tượng hào quang xung quanh thân thể con người. Song vì các
hiện tượng vẫn cứ tồn tại, thậm chí cả khi tôi nhắm mắt lại để xua đuổi hình
ảnh hoặc chuyển dịch xung quanh căn phòng, cho nên tôi bắt đầu quan sát kỹ càng
hơn. Và cứ thế, cuộc hành
trình của tôi bắt đầu, đưa tôi vào những thế giới mà trước đây tôi không biết
là hiện hữu; làm thay đổi hoàn toàn cung cách trước đây tôi vẫn trải nghiệm về
thực tại, con người, vũ trụ cùng mối quan hệ của tôi với vũ trụ.
Tôi thấy rằng trường năng lượng kết hợp mật thiết với sức khỏe
và hạnh phúc của con người. Nếu một người không được khỏe thì điều đó biểu hiện rõ trong
trường năng lượng bằng một dòng chảy năng lượng mất cân bằng và/hoặc năng lượng
ứ trệ ngừng chảy và hiện ra thẩm màu . Màu sắc và hình thái nầy rất đặc trưng
cho từng loại bệnh. Tri giác cao cấp rất có giá trị trong y học và trong vai
trò tham vấn tâm lý học. Khi sử dụng tri giác cao cấp, tôi trở nên thành thạo
trong việc chẩn đoán các vấn đề thể chất lẫn tâm lý và trong việc tìm ra biện
pháp giải quyết các vấn đề đó.
Với tri giác cao cấp, cơ chế bệnh tâm thể nằm ngay trước mắt bạn.
Tri giác cao cấp phát hiện cung cách mà phần lớn bệnh tật khởi đầu trong các
trường năng lượng rồi qua thời gian và tập quán sống mà truyền sang thân thể,
trở thành bệnh nặng. Nhiều khi nguồn gốc hoặc nguyên nhân khởi đầu của quá
trình nầy phối hợp với chấn thương tâm lý và thân thể, hoặc kết hợp cả hai. Vì
tri giác cao cấp phát hiện cung cách khởi đầu của bệnh tật cho nên nó cũng phát
hiện cung cách đảo ngược quá trình bệnh tật.
Trong quá trình tập nhìn trường năng lượng, tôi cũng tập tương tác
với nó một cách hữu thức, như với bất cứ vật gì tôi có thể nhìn thấy. Tôi có
thể thao tác để cho trường năng lượng của mình tương tác với trường năng lượng
của người khác. Tôi sớm học được cách làm cân bằng một trường năng lượng ốm yếu
để người đó có thể trở lại sức khỏe tốt.
Hơn nữa, tôi thấy bản thân mình nhận được thông tin về nguồn gốc
bệnh tật của bệnh nhân. Thông tin này dường như đến với tôi từ một trí óc có trình độ
cao hơn bản thân tôi hoặc cái mà tôi thường coi là chính mình. Quá trình nhận thông
tin theo cách nầy được gọi nôm na là dẫn kênh (channeling). Thông tin được dẫn
kênh thường đến dưới hình thái lời nói, khái niệm hoặc bức tranh tượng trưng sẽ
đi vào tâm trí tôi khi tôi tái cân bằng trường năng lượng của bệnh nhân.
Tôi luôn ở trạng thái biến đổi ý thức khi làm việc nầy. Tôi trở
nên thành thạo trong việc nhận thông tin bằng cách kết hợp các biện pháp khi sử
dụng tri giác cao cấp (tức là dẫn kênh hoặc nhìn thấy). Tôi thường đối chiếu
cái mà tôi nhận được bằng bức tranh tượng trưng trong tâm trí tôi, bằng khái
niệm hoặc bằng lời phán bảo trực tiếp với cái mà tôi nhìn thấy trong trường
năng lượng. Chẳng hạn, trong một trường hợp, tôi nghe nói trực tiếp “cô ấy bị
ung thư”. Và tôi thấy một đốm đen trong trường năng lượng của chị bệnh nhân đó.
Đốm đen nầy phù hợp về kích thước, hình thù và vị trí với kết quả chụp CAT
scanner tiến hành sau đó. Cách kết hợp nhận thông tin bằng tri giác cao cấp trở
nên rất có kết quả, và tôi đạt được độ chính xác cao trong bất cứ miêu tả đặc
biệt nào về tình hình bệnh nhân. Tôi cũng nhận được thông tin dưới dạng những
hành động tự cứu mà bệnh nhân sẽ sử dụng trong suốt quá trình chữa trị. Quá
trình nầy thường đòi hỏi một loạt buổi chữa kéo dài ttong một vài tuần hoặc một
vài tháng, tùy theo mức độ bệnh tật. Quá trình chữa trị bao gồm việc tái cân
bằng trường năng lượng, thay đổi tập quán sống và xử lý chấn thương khởi đầu.
Điều cốt yếu là xử lý, ý nghĩa sâu xa của bệnh tật. Ta cần phải
hỏi: Bệnh nầy có ý nghĩa gì đối với ta? Ta có thể học được điều gì từ bệnh nầy?
Có thể nhìn thấy bệnh tật một cách đơn giản như lời phán bảo từ thân thể của
bạn nói với bạn. Chờ một chút: có cái gì sai đây? Bạn không lắng nghe toàn thể
bản thân mình: bạn quên mất điều gì rất quan trọng đối với bạn. Cái gì vậy?
Nguồn gốc của bệnh tật cần được tìm tòi bằng cách nầy, hoặc ở mức độ tâm lý hay
cảm giác, ở mức độ hiểu biết, hoặc đơn giản bằng sự thay đổi trong trạng thái
tồn tại có thể là vô thức của con người.
Việc trở lại sức khỏe bình thường đòi hỏi cá nhân phải hành động
và thay đổi nhiều hơn là chỉ đơn gian uống những viên thuốc theo đơn bác sĩ.
Nếu không có thay đổi của bản thân, cuối cùng bạn sẽ không thể tạo ra một vấn
đề khác để dẫn dắt bạn trở về với nguồn gốc đã gây nên bệnh tật trước tiên. Tôi
thấy rằng nguồn gốc là chìa khoá.
Xử lý nguồn gốc thường đòi hỏi thay đổi cách sống, cuối cùng sẽ
dẫn dắt đời sống cá thể đến chỗ liên kết chặt chẽ hơn với cốt lõi của con
người. Nó dẫn dắt ta đến phần sâu xa hơn của bản thân ta, phần nầy đôi khi được
gọi là bản ngã cao cấp hoặc tia sáng của siêu phàm bên trong.