I/
Ý NGHĨA VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VẤN ĐỀ
1.1. Thuật hoặc
thuyết phong thủy có mục đích và tôn chỉ “vị nhân sinh": Bố trí chỗ ở tốt
cho người sống; đặt “mồ mả" ở nơi đất tốt cho người chết, nhằm mang lại
“tài lợi" cho cuộc sống hiện tại và phúc lộc cho các thế hệ con cháu mai
sau.
1.2. “Phong thuỷ"
đã có quá trình lịch sử từ lâu (từ hơn 4 thế kỷ trước công nguyên), nó là một
hình thức tôn giáo, văn hoá cổ xưa của các nước phương Đông, trong đó có Việt
Nam.
1.3. Áp dụng
phong thuỷ đã mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho con người trong các lĩnh vực
đời sống dân cư, dặc biệt là trong kiến trúc, quy hoạch xây dựng nơi cư trú cho
người sống và chôn cất cho người chết.
1.4. Phong thuỷ
được hình thành và phát triển trở thành Thuyết, và được nhiều nhà nghiên cứu bổ
sung, hoàn thiện cả về lý luận, lẫn thực tiễn.
1.4.1. Ở Việt
Nam: Thời Lê có ông Nguyễn Hữu Huyên, người làng Tả Ao, Hà Tĩnh, nổi tiếng về
thuật phong thuỷ, thường gọi là thầy Tả Ao; Viện Hán nôm còn giữ được 70 cuốn
sách viết về phong thuỷ; Việc Vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long,
nhà Nguyễn xây dựng Kinh thành Huế gắn với Sông Hương, Núi Ngự; việc dân xây dựng
đình chùa, đền miếu và cất mồ mả, v.v... ít nhiều đã vận dụng phong thuỷ.
1.4.2. Ở các nước,
đặc biệt là ở Trung Quốc, phong thuỷ đã được nghiên cứu sâu sắc và ứng dụng rộng
rãi trong nhiều lĩnh vực từ hàng nghìn năm nay.
1.5. Việc hiểu
và nắm vững cơ sở lý luận về phong thuỷ giúp chúng ta phân biệt được đúng và
sai; tà và chính và có hành động đúng trong việc áp dụng thuật phong thủy.
II/
CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.
Khái niệm
2.1.1.
Định nghĩa:
Phong thuỷ là sự
kết hợp giữa nghệ thuật và khoa học, nhằm lựa chọn địa điểm xây dựng, bố trí sắp
đặt cơ cấu quy hoạch xây dựng các điểm dân cư, các toà nhà phòng ốc và đồ đạc một
cách có lợi nhất, để đạt được sự hài hoà với môi trường xung quanh, nhờ đó mà
có được sự phát triển bền vững.
Tuy nhiên, phong
thuỷ không phải là thần dược. Người Trung Quốc quan niệm ‘Nhất phúc, nhì mệnh,
tam phong thuỷ".
Mặt khác, phong
thuỷ cũng không phải là "pháp thuật", nó là sản phẩm của lịch sử và phục
vụ cho cuộc sống con người.
2.1.2.
Mục đích, tôn chỉ:
Tìm đất, sắp đặt
nơi cư trú cho người sống (dương trạch); tìm đất để chôn người chết (âm trạch);
Tôn chỉ của
phong thuỷ là: Tàng phong (giữ gió); đắc thuỷ (được nước) và tụ khí (hội tụ
sinh khí). Tôn chỉ này chi phối mọi quan hệ và giải pháp thiết kế theo phong
thuỷ (hình minh họa)
2.2.
Các trường phái
2.2.1.
Các trường phái cổ
Gill Hale trong
tác phẩm “Nghệ thuật bài trí nhà cửa theo khoa học phương đông” đã chỉ ra ba
trường phái có phương pháp tiếp cận khác nhau để giao tiếp với năng lượng hoặc
cảm giác về một nơi chốn và thay đổi chi tiết để mang lại hiệu quả cho người sử
dụng. Các trường phái gổm:
+ Trường phái
môi sinh: sử dụng hiệu quà các điều kiện tự nhiên, trường phái này còn gọi là
hình thể (phái loan đầu) hay địa hình.
+ Trường phái la
bàn: Xem xét thiên văn, đoán vận mệnh trên cơ sở dùng la bàn để chọn địa điểm
thích hợp xây dựng chỗ ở cho con người. Trường phái này dựa trên kinh dịch, nhằm
liên kết các dòng chảy năng lượng tự nhiên của vũ trụ.
+ Trường phái trực
giác: Mô phỏng và đặt tên cho các thế đất mang tính ẩn dụ như long chầu, hổ phục.
Trong "Thuỷ Long kinh”, người xưa đã thể hiện chi tiết về những "cuộc
đất tốt nhất để xựng dựng nhà và cất mồ mả”
2.2.2.
Các nghiên cứu hiện đại
Giáo sư Du Khổng Kiên (Trung Quốc) trong tác
phẩm "Phong thuỷ cảnh quan sông lý tưởng" đã chỉ rõ: "Sách địa
lý bắt đầu có từ Hoàng Thạch (cuối Tần, đầu Hán) được kế tục sang đời Tấn và thịnh
hành ở đời Đường.
Trước 1950, các
sách phong thuỷ được thịnh hành ở Đại lục Trung Quốc, sau bị cấm đoán, nhưng lại
thịnh hành ở Đài Loan, Hồng Kông và một số nước Đông Nam Á.
Tuy nhiên, nhiều
GS Trung Quốc đã luôn chuyên tâm nghiên cứu phát triển thuyết phong thuỷ lên một
tầm cao. GS Du Khổng Kiên nêu 3 đặc điểm tiến hoá của phong thuỷ. Trước hết là
sự tìm kiếm mô hình vùng đất định cư như ý của người nguyên thuỷ; tiếp đó là tổng
kết được kinh nghiệm của các mô hình phong thuỷ ở những vùng đất trũng trong
văn hoá nông nghiệp và cuối cùng là suy xét theo quan điểm triết học đối với
thuyết phong thuỷ và dò tìm những hàm ý sâu xa cua phong thuỷ;
Ở các nước
phương tây, sự quan tâm nghiên cứu phong thuỷ bát đầu từ Yates (1868). Các giáo
sĩ truyền đạo cơ đốc trong thời kỳ đầu đều cho rằng phong thuỷ là phép phù thuỷ
(black art), mê tín và thuật lừa bịp. Chính phủ của nhiều nước cùng chống lại
phong thuỷ, để đảm bảo tiến độ các công trình không bị các nhà phong thuỷ cản
trở; vì vậy một số lượng lớn các sách phong thuỷ có giá trị đã bị đốt trụi.
Tuy nhiên, đến
thế kỷ 20, thuyết phong thuỷ đã thu hút được nhiều học giả phương tây và địa vị
của nó ngày càng cao. Năm 1973, Michell đã tuyên bố thời kỳ thay đổi quan niệm
giá trị truyền thống của phương tây. Bernnett (1978) gọi phong thuỷ là một
logic sinh thái học vũ trụ (Astro-ecology), ông cho rằng, phong thuỷ lấy quan hệ
giữa người và đất, người và vũ trụ là nền tảng. Nhiều tác giả Skimer (1982), Su
(1990), Rosspach (1903) đã tiếp tục phát triển thuyết phong thuỷ. Các học giả
khác của phương tây đã coi phong thuỷ phát triển ngang với sinh thái và môi trường,
từ đó hình thành tư tưởng thiết kế tôn trọng tự nhiên (Design with nature), được
các nhà quy hoạch phương tây lấy làm tiêu chuẩn cao nhất. Đến nay, nhiều người
phương tây đã cho rằng "Nếu đem mô hình phong thuỷ kết hợp với mô hình của
phương tây thì có thể cho chúng ta một nhận thức toàn diện hơn về thế giới, đặc
biệt hơn là thế giới cuộc sống của chúng ta".
2.3.
Các nguyên lý của phong thuỷ
Các yếu tố chủ yếu
của phong thuỷ là "gió" và "nước". Phong thuỷ là nghệ thuật
kết hợp để ghép con người và định mệnh với môi trường xung quan (tự nhiên hoặc
nhân tạo), có tính tổng quát hoặc cục bộ. Phong thuỷ là sự pha trộn giữa đạo
giáo, phật giáo, lý thuyết âm dương về sự cân bằng và hợp nhất với tự nhiên. Do
đó, nguyên lý của phong thuỷ được dựa trên 5 nhân tố: Đạo, Âm dương, Khí, Ngũ
hành và Kinh dịch (bát quái).
2.3.1. Đạo: là
quá trình và nguyên lý để liên kết con người với vũ trụ “vạn vật đồng nhất đạo",
vì thế Đạo có tính bất biến. Nhờ đạo, con người có thể tìm kiếm được sự cân bằng
và sự hài hoà với hoàn cảnh.
2.3.2. Âm và
dương: là một cặp phạm trù, vừa đối nghịch vừa thống nhất nhau. Triết lý về các
cặp phạm trù đã được các nhà triết học như Hegen, C.Mark v.v... lý giải. Trong
thiết kế, phong thuỷ tìm kiếm sự cân bằng và sự hài hoà cho một ngôi nhà và đem
lại cho người cư ngụ sức khoẻ và sự cân bằng cảm xúc.
2.3.3. Khí: là
hơi thở hoặc năng lượng. Năng lượng được hiểu là “Long mạch", nuôi dưỡng
khí dể làm giàu cuộc sống và khí của những người cư ngụ. Phong thuỷ ảnh hưởng đến
khí của con người. Do đó, có thể dùng phong thuỷ để giúp gỡ rối được các
"nút" ngăn chặn hạnh phúc, mục đích và niềm hy vọng của con người.
Điều tiết và lưu
thông các dòng khí là mục đích tiềm ẩn của phong thuỷ. Các dòng chuyển động:
giao thông, thông gió, ánh sáng, v.v... phải hài hoà thông suốt "Thông bất
thống và thống bất thông" là nguyên tắc của y học và cũng là của phong thuỷ.
Trong điều hành công việc, hoà khí tạo ra sức mạnh và động lực (hoà khí sinh
tài).
2.3.4. Ngũ hành:
Là sự hài hoà khí của con người với ngôi nhà: Khí gồm: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ.
Ngũ hành kết hợp
với màu sắc, thời gian, mùa màng, phương hướng, các tinh tú, lục phủ ngũ tạng
v.v để điều chỉnh khí của con người.
Ngũ hành có 2
chu kỳ hình thành và chu kỳ hủy diệt (vòng sinh và vòng khắc)
2.3.5: Bát quái:
Trong phong thuỷ. một không gian có 8 góc được gọi là bát quái, được dùng để chấn
đoán các sự bất cân xứng trong môi trường và đời sống, từ đó cải thiện sức khỏe,
hạnh phúc và thịnh vượng. Khi thiết kế phải xem xét những góc không bình thường
của một ngôi nhà để có giải pháp xử ly thỏa đáng nhằm tạo ra sự cân bằng và hài
hoà giữa chủ nhân và ngôi nhà.
3.1.
Phạm vi áp dụng:
Các nguyên lý của
phong thuỷ được áp dụng trong thiết kế mới, quy hoạch xây dựng hoặc cải tạo một
vùng, đô thị, điểm dân cư nông thôn và thiết kế kiến trúc một công trình hoặc tổ
hợp công trình được xây dựng trên một lô đất hoặc một thửa đất.
Nội dung áp dụng
thuật phong thuỷ gồm:
+ Lựa chọn địa
điểm xây dựng một khu dân cư, khu công nghiệp hoặc một công trình có quy mô đủ
lớn, mà trong quy hoạch chung, quy hoạch chi tiết chưa xác định.
+ Quy hoạch
chung, quy hoạch chi tiết tổng mặt bằng một khu dân cư, khu kinh tế, khu công
nghiệp và các khu chức năng khác.
+ Thiết kế đô thị
+ Thiết kế mặt bằng
tổng thể 01 lô đất xây dựng công trình
+ Nghệ thuật tạo
hình trong thiết kế hình dáng công trình và trang trí các mặt chính của ngôi
nhà
+ Thiết kế trang
trí nội, ngoại thất.
+ Xử lý các
"cản trở" trong quá trình khai thác và sử dụng ngôi nhà, mua bán kinh
doanh bất động sản.
3.2.
Một số áp dụng thuật phong thuỷ.
3.2.1.
Lựa chọn địa điểm:
+ Phương pháp
phân bố nông nghiệp, lựa chọn địa điểm một khu công nghiệp (hoặc nhà máy), khu
dân cư, các trung tâm dịch vụ, v.v được trình bày kỹ trong lý thuyết kinh tế
không gian (Weber, Lochs, W.Christaltier, V.Thuren,v.v…) và trong các nguyên lý
quy hoạch vùng, quy hoạch đô thị. Các phương pháp này đều dựa trên các yếu tố:
Nội dung và quy mô đầu tư công trình, các điều kiện môi trường địa lý tự nhiên;
mô hình lý tưởng, v.v… để tìm địa điểm tối ưu, nơi hội tụ được nhiều điều kiện
thuận lợi nhất, với chi phí giá thành thấp, nhưng hiệu quả kinh tế cao trong
quá trình khai thác sử dụng.
+ Thuyết phong
thuỷ cũng dựa trên những yếu tố đó, nhưng mô hình phong thuỷ lý tưởng lại khác
với các mô hình tổ chức không gian lý tưởng do các nhà quy hoạch nghiên cứu đề
xuất; ví dụ: đối với một đô thị thường áp dụng các mô hình cơ cấu tĩnh, mô hình
cơ cấu quá độ và mô hình cơ cấu mở (cơ cấu tuyến, song song,v.v…). Mô hình
phong thuỷ lý tưởng là “Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ, tiền Chu Tước, hậu Huyền
Vũ". Trạng thái lý tưởng của mô hình này là “Rùa rụt đầu, Phượng hoàng bay
lượn, Rồng xanh uốn mình và Hổ trắng phủ phục (Hình vẽ)
Phương pháp tiếp
cận như sau:
+ Xác định các dữ
liệu về công trình và các yêu cầu về địa điểm
+ Tìm chọn các
phương án địa điểm có khả năng đáp ứng
+ Đối chiếu với
mô hình phong thủy lý tưởng, so sánh chọn phương án địa điểm tối ưu
3.2.2. Thiết kế
quy hoạch tổng mặt bằng, phương pháp tiếp cận theo quan niệm phong thuỷ: Tuân
thủ các nguyên tắc của mô hình phong thuỷ lý tưởng và áp dụng các tiêu chuẩn,
quy phạm hoặc các chỉ định về cát hung trong việc bố trí các khu chức năng phù
hợp với 5 nguyên lý phong thuỷ.
- Các nguyên tắc
chủ yếu trong thiết kế quy hoạch tổng mặt bằng là:
+ Phân tích cảnh
quan thiên nhiên, xác định bộ khung thiên nhiên và các yếu tố nhân tạo cần được
tồn tại bảo vệ;
+ Khoanh định
các vùng tốt có khả năng phát triển: vị trí, kích thước, hình dáng vùng tốt.
+ Chọn hướng và
trục hoàng đạo. Ví dụ một khu dân cư, hướng tốt được xác định theo nguyên tắc tựa
sơn, đạp thuỷ và trục hoàng đạo (đường mong muốn) gắn với chu trình tiến hoá hoặc
lộ trình phát triển và khai thông được các luồng gió lành (Nam, Đông Nam).
- Xây dựng mô
hình cấu trúc hợp với mô hình phong thuỷ lý tưởng trên cơ sở đó thiết kế các
phương án bố cục tổng mặt bằng. So sánh lựa chọn phương án tối ưu theo quan niệm
phong thuỷ. Người Trung Quốc thường lấy mô hình núi Côn Lôn, mô hình Bồng lai,
mô hình Hồ thiên và mô hình Đào Uyên Minh làm ví dụ. Theo giáo sư Du Khổng Kiên
, các mô hình trên đã đáp ứng được các nguyên tắc của mô hình phong thuỷ lý tưởng,
đó là:
+ Bao bọc và che
chắn;
+ Kề biển và
nương Sơn;
+ Cách ly và
thai tức (sinh sôi nảy nở);
+ Chỗ trống và
hành lang (Minh đường được thông với thế giới bên ngoài), v.v...
3.2.3.
Thiết kế kiến trúc công trình:
Theo phương pháp
tiếp cận phong thuỷ, việc thiết kế kiến trúc công trình phù hợp với 5 nguyên lý
của thuật phong thuỷ và được tiến hành theo trình tự sau:
a/ Vị trí và
hình dáng lô đất:
Vị trí thuận lợi
của chỗ ở tốt theo thuyết phong thuỷ là:
+ Có điều kiện tự
nhiên tốt: Đất lành chim đậu. Lý thuyết kiến trúc cũng khẳng định 3 yếu tố chủ
dạo của tự nhiên là: đất đai, phong cảnh và khí hậu. Khi quan trắc vị trí có thể
nhận ra khí của đất thông qua cỏ và thực vật trong vườn nếu có mầu xanh, khí sẻ
tốt lành và mạnh khoẻ. Bãi cỏ trong vườn đầy thảo mộc, cỏ hoa là dấu hiệu của
khí xung mãn. Động vật hoang dã hoặc thú gia cầm khoẻ mạnh, thể hiện sự sung
mãn của khí đất (chim cá, vượn hót).
+ Những người
láng giềng nếu nổi tiếng, sung túc và thành đạt và thân thiện thì khí tốt.
+ Ngược lại cần
phải xét xét các điềm báo khí xấu: đèn bị cháy khi bật, kẹt khoá, chim chết
trên sàn nhà v.v...
+ Hình dáng lô đất:
các mảnh đất có hình vuông hoặc hình chữ nhật là tốt nhất.
b/ Môi trường
xung quanh:
Phân tích cảnh
quan thiên nhiên: Núi và sông hồ và cảnh quan nhân tạo: Nhà cửa, đường xá, xe cộ,
người đi lại nhộn nhịp. Ngoài ra, có thể khảo sát giá đất để xác định được sự tốt,
xấu của vị trí lô dất.
c/ Chọn hướng và
lối di
Hướng nhà: Hướng
lãnh (theo trạch mệnh tương phối) và gắn bó tốt với môi trường xung quanh.
Lối đi: Mở cửa
chính tạo ra sự quan hệ hợp lý giữa trong và ngoài theo nguyên tắc: sông cái đổ
vào biển, sông con đổ vào sông cái, còn kênh, mương thì đổ vào sông con v.v...
Tránh các tác động
xấu từ bên ngoài dội trực tiếp vào cổng: phía trước như: nhà tang lễ, vườn thú
v.v..., đường cái đâm thẳng vào nhà như mũi tên. Góc, đao dình v.v... (ví dụ
Dinh Độc lập, Thành Tây đô (Nhà Hồ)). Tháo dỡ các rào cản làm vướng víu lối đi.
d/ Bố trí sân,
vườn cây cối
Cây cối bố tri
trong sân vườn phải tạo ra sự che chắn cái xấu, tạo ra sự cân bằng miếng đât, cải
thiện điều kiện tự nhiên và tạo ra vẻ đẹp cho ngôi nhà. Nguyên tắc bố trí theo
tiêu chuẩn quy phạm và chỉ định về cát, hung được trình bày trong các sách về
phong thuỷ ứng dụng.
Ao, hồ: kích thước,
vị trí của ao hồ phải cân bằng với mảnh đất và phù hợp với mô hình phong thuỷ
(tả thanh long).
e/ Định vị ngôi
nhà
Ngôi nhà được đặt
ở trọng tâm lô đất là tốt nhất, sao cho tạo ra sự cân bằng được khoảng phía trước
và phần hậu ngôi nhà, đối với một thửa đất bố trí nhiều ngôi nhà, thì bố cục
chiều cao cũng phải tạo ra được sự thăng bằng không gian.
g/ Thiết kế mặt
bằng
Mặt bằng ngôi
nhà được thiết kế theo nguyên lý kiến trúc, phù hợp với các nguyên lý phong thuỷ,
đồng thời tôn trọng các chỉ định của phong thuỷ tạo ra môi trường sống tiện
nghi nhất cho con người. Khi thiết kế mặt bằng ngôi nhà cần dựa vào các yếu tố
sau:
+ Trạch mệnh
tương phối: được xác định theo tuổi của chủ nhà và người cư trú
+ Bát quái
+ Các chỉ định
cát, hung đối với từng căn phòng và bộ phận cấu thành. + Đối với nhà ở các
phòng ngủ, các phòng vệ sinh, bếp, phòng thờ là các bộ phận nhạy cảm cần phải
được phân tích kỹ trước khi bố trí tổng mặt bằng.
+ Áp dụng các
phép hoá giải: Giáo sư Lin Yun đã đưa ra được 9 giải pháp hoá giải. Ông Tống
Thiếu Quan cũng đưa ra nhiều phép hoá giải khác.
h/ Bố trí các đồ
đạc và trang trí nội thất
Các đồ đạc trong
phòng được bố trí theo nguyên tắc:
+ Tiện lợi sử dụng
(giải pháp công năng theo thiết kế kiến trúc)
+ Mệnh trạch của
chủ nhân
+ Bát quái
+ Các chỉ dịnh
cát, hung của phong thuỷ và thước lỗ ban
Các giải pháp
trang trí: ánh sáng, vật liệu, màu sác và các giải pháp hoá giải phù hợp khác.
i/ Tạo dáng ngôi
nhà và trang trí mặt đứng được dựa vào các nguyên lý của nghệ thuột tạo hình và
các nguyên lý của phong thuỷ.
3.2.4. Xử lý các
rào càn, trắc trở trong quá trình sử dụng
+ Khi chủ nhân
và gia định có trục trặc, khó khăn, cần phải bình tĩnh tìm hiểu các nguyên
nhân. Nếu nguyên nhân do ngôi nhà gây ra thì phải chẩn đoán bệnh và hoá giải những
gì xẩy ra trong ngôi nhà được phản ánh trong đời sống và cơ thể của người cư ngụ.
Ví dụ: cánh cửa sổ bị vỡ thì mặt và tai người cư ngụ có thể có vấn đề...
+ Các giải pháp
hoá giải các cản trở của người cư ngụ trong quá tình sử dụng thường có tính huyền
bí. Các giải pháp thường dùng gồm: Tăng cường tam nghiệp (thân hoặc nguyện,
ngôn và ý định); bát quái; theo vết cửu tinh; bát môn luận; trị nội (ban phép
bên trong), trị ngoại, bánh xe luân hồi và lịch sử ngôi nhà.
Các giải pháp
hoá giải trên là của Mật Tông hắc phái, có thể tham khảo áp dụng thử nghiệm như
một khảo cứu về phong thuỷ trong thiết kế kiến trúc và thiết kế đô thị.
III/
KẾT LUẬN
1. Phong thuỷ là
sự kết hợp giữa nghệ thuật và khoa học, đã được tồn tại và phát triển từ nhiều
năm nay. Lợi ích của phong thuỷ đã được khẳng định trong quá trình áp dụng.
Nhưng phong thuỷ không phải là thần dược và cũng không phải là một sự mê tín dị
đoan. Chỉ có quan niệm và sử dụng đúng thuật phong thuỷ thì mới mang lại hiệu
quả và lợi ích thiết thực.
2. Nguyên lý của
phong thuỷ là đạo; âm và dương; khí; ngũ hành và bát quái.
Việc áp dụng các
nguyên lý của phong thuỷ trong quy hoạch xây dựng và thiết kế kiến trúc không
thể thay thế cho các khoa học thiết kế quy hoạch xây dựng và thiết kế kiến
trúc, mà nó chỉ bổ sung và hoàn thiện hơn ngành thiết kế này, nhằm phục vụ tốt
hơn cho đời sống dân cư.
PGS.TS.KTS Trần
Trọng Hanh
Đại học Kiến
trúc Hà Nội