Cái đáng trọng của cụ Nguyễn Công Trứ:
Nghị Lực
Hy Văn tiên sinh chào đời năm
1778 là năm Mậu Tuất ngày 01 tháng 11 giờ Thìn, tức là năm đầu Thái Đức Nguyễn
Nhạc nhà Tây Sơn xưng vương cho đến khi khôn lớn trên 20 năm có thể nói là một
khoảng thời gian bất hạnh cho tiên sinh gặp cảnh gia biến đi đổi với đất nước
suy tàn vì nội chiến, nhưng có lẽ cũng là một dịp để rèn luyện chí con người mà
sau này ta được thưởng thức những bản hùng ca:
Đã
mang tiếng ở trong trời đất
Phải
có danh gì với núi sông
Trong
cuộc trần ai ai dễ biết
Rồi
ra mới rõ mặt anh hung,
Nhìn vào Mệnh, Thân (cả vị trí
lẫn sao) của tiên sinh thấy cả một cái thế bất mãn của người muốn mang chí để
lấp biển vá trời. Tử Tướng ngộ Tuần là một sự bực bội vô cùng của kẻ sĩ phải
đứng khoanh tay vì Hữu Bật bị Triệt. Vì thế mỗi khi có dịp trị loạn dẹp giặc,
là tiên sinh tình nguyện xin đi liền . Cũng là một cái hay, mỗi lần ra quân là
mỗi lần thắng cuộc, có phải cái thế của Thân Tí Thìn dễ dàng đàn áp Dần Ngọ
Tuất.
Đối cục đâu phải tầm thường
Sát Phá Tham đắc địa nhưng thiếu sát tinh đắc cách phò trợ, Kình Dương ở Ngọ
nhập bọn với Lực Sĩ, Bạch Hổ ngộ Thiên Tài đủ nghĩa của tư cách anh hùng rơm
hung hăng sống ngoài vòng pháp luật, chỉ làm tai hại cho Thất Sát - Phá
Quân mà thôi, một Tham Lang đứng đứng
cặp với Hao ở Dần không đủ đối phó. (Lê Duy Lương ở Thanh Hoá, Phan Bá Vành ở Nam Định,
Nùng Văn Vân ở Tuyên Quang, giặc biển ở Quảng Yên và loạn
quân Chân Lạp ở miền Nam). Mạnh nhất là Lê Duy Lương dựa trên cái
thể chính nghĩa, con cháu nhà Lê phục hưng (Thái Tuế).
Toàn bộ Mệnh Thân tiên sinh
chỉ trông nhờ vào một Thiên Tướng, cái hại của Tuần làm cho Tiên sinh phải trầy
trật, gian nan, nhưng cái hay của Tuần là phá vỡ La Võng (Đà la) để mở đường cho
tiên sinh tiến thân hòa hợp với Hữu bật bị Triệt đắc Khoa ở Tí giải tỏa.
Vị trí của tuổi Mậu Tuất đóng
ở Thân là vị trí của người bất mãn, thường thốt ra những lời biếm trách nhưng
đứng cặp với Mã và Khốc lại là cái thế ngông bằng những câu văn (Văn Khúc) khí phách một trượng phu. Người đời nói tiên
sinh nổi tiếng về những bài ca trù (hát ả đào) luôn luôn lấy hoàn cảnh mình ra
thổ lộ tâm tình của Tử-Tướng ngộ Tuần .
Thật ra rất khó phân tách cái
Thân của tiên sinh với Tử-Tướng mắc La
Võng (Đà La) nếu không có Tuần sao làm nên việc, mà Tử-Tướng
ngộ Tuần là 1 điều thiệt thòi cho tiên sinh. Mỗi khi lên nắm quyền một địa vị
lớn thì khó mà thụ hưởng vinh quang, vì lẽ đó đời tiên sinh đã bị ba lần giáng
chức .
Cũng nhờ Liêm Trinh thủ mệnh
dầu không phải là nòng cốt, muốn giữ cho đúng nghĩa chữ Liêm, đương số cũng
phải nhọc công hao tổn bồi đắp mới thành, vì người Mộc mệnh Dần Ngọ Tuất đứng ở
thế Thân Tí Thìn dễ bị thất chí, mà Thân còn đóng ở vị trí Phá- Hư cũng dễ bị
lôi cuốn vào vòng rối loạn. Phải chăng Liêm-Trinh đắc dụng để tiên sinh được
tiếng là người phục hưng chính quyền quân chủ tập trung bằng những câu:
Tang bổng hồ thì nam nhi trải
Cái công danh là cái nợ nần
Nặng nề thay đôi chữ quần thần
Đạo vi tử vi thần đâu có nhẹ.
Vì nội chiến quá lâu , dân
tình đau khổ quá nhiều, nhân tâm biến đổi .
Một vụ điển hình có tên Nguyễn
Trang môn đệ của Lý Trần Quán, bắt chúa Trịnh Khải nộp cho vua Tây Sơn và trả
lời cho thầy học bằng câu: “Thương chúa không bằng thương thân, sợ thầy không
bằng sợ giặc” đã tỏ rõ sự phá sản tinh thần đạo đức đến bực quá thấp trong quần
chúng, ngay cả người đã có cắp sách đến xin thầy năm ba chữ của Thánh hiền;
cũng không giữ được giáo lý thì với tư cách của Liêm Trinh thủ mệnh, Tử-Tướng
ngộ Đà đắc Tuần ở Thân không cho phép Phá-Hư làm nghịch cảnh, ta phải chịu đó
là một nghị lực (Thiên Mã).
Vốn là một nhà Nho bị phá sản
của thời cuộc , cả tinh thần lẫn vật chất, Mệnh Thân đều đóng ở vị trí bấp bênh
trên cái thế nghiêng ngửa đời sống, cái nghị lực này không phi thường hơn
người, làm gì không thành một Nguyễn Hữu Cầu, một Cao Bá Quát. Mã Khốc Khách
thân cung đưa cái thế Liêm Trinh lên tột đỉnh , phơi bày từ vua cho đến dân cái
lòng trinh bạch của nhà Nho rất ngông.
Trường hợp Tuyệt- Hao ở đây
xin thưa rằng Tuyệt ngự Kim cung Hao ở đắc địa không thể gán cho chữ xảo quyệt
huống chi Liêm Trinh chỉ huy đứng đó thì sự khôn ngoan đa mưu túc trí mới là
đúng nghĩa .
Cuộc đời tiên sinh có 3 giai
đoạn đắc chí , nhìn vào số thấy ngay hai giai đoạn trong tam hợp tuổi là Tuất
(23-32) và Dần (63-72). Giai đoạn trên đương tuổi thiếu niên đắc chí về học được
thầy quý bạn phục , làm danh dự cho nhà trường với bản điều trần “Thái Bình
Thập Sách” dâng vua Gia Long lúc tuần-du được cả vua lẫn triều đình lưu ý. Giai
đoạn sau đường công danh tiến bước cho đến lúc về hưu an dưỡng tuổi già, tuy có
một lần bị cách hết chức tước, biếm làm lính thú, nhưng chỉ trong 8 tháng được
phục hồi chức vị , làm việc ngay tại chỗ để tiên sinh được rửa tiếng.
Còn 1 giai đoạn đặc biệt tiên
sinh được thỏa chí nam nhi là giai đoạn ở Tí cung (43-52), đây là trường hợp tuy
trái với tam hợp tuổi Dần Ngọ Tuất mà còn bị thế Thân Tí Thìn khắc nhập, tiên
sinh được đắc hưởng do chính bộ máy Tuần-Triệt thi hành sứ mạng mở rộng cửa
danh dự đón rước tiên sinh chiếm giải-nguyên tuần tự thụ lãnh chức vị Hình-Bộ
Tham-Trí sung Dinh-Điền Sứ, bước hoạn lộ thẳng ngay không một mảy may ngừng
trệ.
Giai đoạn rắc rối nhất là Sửu
cung (53-62) Dần Ngọ Tuất đáo Tỵ Dậu Sửu kể là sa lầy, tiên sinh bị giáng chức
hai lần và phải xông pha nhiều chiến trận.
Hầu hết những bài ca trù của
cụ Nguyễn Công Trứ toàn bộc lộ cái chí Nam Nhi , với hận ngông của kiếp
hàn-nho, tỏ rõ tuổi Tuất mà Mệnh lập Thân cung tiềm tàng một nghị lực quá cao
cả (Mã Khốc Khách) sóng đôi với Thân: Tử-Tướng ngộ Tuần, nhịp điệu cùng với
Quan cung bị Triệt, đắc Khoa ở Tý. Bao nhiêu yếu tổ đủ giảng cái thân thế của
một nhân-sinh:
Trót sinh ra thời phải có cái chi chi
Chẳng lẽ tiêu lường ba vạn sáu
Truyện đố kỵ sá chi con tạo
Nợ tang bồng quyết trả cho xong
Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm
cung
Cho rõ mặt tu mi nam tử
Trong vũ trụ đanh là phận sự
Phải có danh mà đối với núi sông
Đi không chẳng lẽ lại về không .