Một lá số Vô Chính Diệu đắc cách:
ĐỨC HƯNG ĐẠO VƯƠNG TR ẦN
QUỐC TUẤN
Hưng Đạo Vương là tước vị của hoàng
thân Trần Quốc Tuấn , một vị danh tướng nhà Trần có chiến công không kém phần
quan trọng và hiển hách so với các vị anh hùng dân tộc như Đại đế Quang Trung, Lê Thái T ổ. Ngài là vị anh hùng
đuổi quân xâm lăng Mông Cổ , chứ không phải chỉ là một vị linh thần như một số
người hiểu lầm dưới một khía cạnh đánh phạt tà ma cứu nhân độ thế với uy hiệu
là Đức Thánh Trần.
Theo một số dã sử, ngài tuồi
Mậu Tý (1228 TL) , sanh ngày 30 tháng chạp giờ Ngọ, quy thần ngày 20 tháng 8
năm Canh Tý (1300 TL) hưởng thọ 72 tuổi.
Tuổi Mậu Tý thân mệnh đồng
cung tại Mùi Vô Chính Diệu là vị trí của người đã chấp nhận với định mệnh lấy
đức nhân hậu làm chủ đích, dầu thân phận có phải hy sinh cũng không ngại. Vì
thế đương số mới ghi được câu nói bất hủ : “Nếu Bệ hạ muốn hàng Mông Cổ xin
trước hãy chém đầu tôi đi đã rồi sau sẽ hàng cũng không muộn”. Ăn nhịp với câu
cứng cỏi bất khuất của Thái Sư Trần Thủ Độ : “Đầu thần chưa rơi xuống đất thì
xin Bệ Hạ đừng lo”.
Người Vô Chính Diệu Hỏa mệnh
đắc Tuần câu hút Nhật Nguyệt tịnh minh Mão Hợi phải nói là cách Vô Chính Diệu
tuyệt hảo , một sự thông minh quán chúng, một đức độ chính đính
sánh với trời cao đất rộng (Song long Quan Phúc);
còn Hồng – Việt Tả Hữu Khoa - Quyền, một khả năng văn võ toàn tài quyền uy đúng
mực.
Đây có phải là một vị Thiên
tướng xuống trần như đế - sử đã nói: lúc có mang An Sinh vương Vương phu nhân nằm mơ
thầy thiên thần sinh đầu thai , đến lúc sinh ra Vương có hào quang mùi thơm
ngào ngạt. Lên 6 tuổi đã biết làm thơ và hay bày chơi đồ bát trận (Nam Hải Dị
Nhân của Phan K ế
Bính).
Lòng chính đính của Vương ngay
cả ở bộ tinh đẩu giáp 2 bên mệnh Thai, Tọa, Quang Quí phá tan cả nghi vấn Tử -
Phá là hoàn cảnh bất hạnh Vương phải gánh chịu một trong hai điều bất trung hay
bất hiếu . Vì nhà Trần, theo sử liệu có
sự lỉnh kỉnh trong Hoàng tộc nên khi Đức Ông An - Sinh Vương – Liễu lúc
sắp qua đời có trối trăn cho Vương là phải giải hận cho ông. Nên lúc phò xa giá
Nhân – Tôn chạy loạn vào Thanh Hóa, Vương phải bẻ gãy mũi gươm ở tay để tránh
điều nghi kỵ và tỏ lòng trung thành minh bạch của Vương như đôi vừng Nhật
Nguyệt ở số định, tưởng sự chân thành này không còn bút nào tả hết, và công
nghiệp vang dội cũng không biết nói thế nào tả đủ với Tuần của Hỏa mệnh.
Đem so sánh với số Vô Chính
Diệu của Lê Thái T ổ
Kim – mệnh đắc Bạch Hổ cư Dậu , lá số vị Đại đế cứu quốc cũng được Nhật Nguyệt
ở Sửu chiếu lên. Người tuổi Sửu đứng ở Dậu là cái thế của người làm việc chính
nghĩa . Kim – mệnh đóng Kim – cung ở thế Kim , đối phương ở Mão (Mộc) khó nói ở
yên không thể không bị khắc chế. Nếu thêm Tuần thị lại giảm uy danh của Bạch Hổ
độc thủ tuy là câu hút được Nhật Nguyệt dễ dàng, vậy không nên quan niệm tính ở
“Không” mà định giá trị của số Vô Chính Diệu.
Đại đế Lê Thái T ổ với Bạch Hổ ở bản mệnh
Kim, được Nhật Nguyệt ở Sửu, binh quyền ở Tỵ đủ cái nghĩa một vị Đại đế anh
hùng thời cuộc, còn Hưng Đạo Vương
Vô Chính Diệu không có nòng cốt một sát tinh đắc địa hợp mệnh
của tuổi Hỏa, phải mượn thế Thái – Dương nhờ Tuần thâu hút, dẫu Tuần là Hỏa,
cũng là một số đắc cách, phải nhìn nhận là kém số vua Lê lợi vì không đắc sát
tinh đắc địa độc thủ mất đi phần uy nghiêm bố cục. Nhưng được Tuần lôi kéo Nhật
Nguyệt nhất là Nhật ở Mão , Nguyệt ở Hợi là vị trí tuyệt phần của thông
minh, sáng suốt hơn hẳn bất cứ vị trí
nào của bộ Âm – Dương. Huống chi bồi thêm Tả Hữu Hồng – Việt Khoa – Quyền dư
tài làm một vị nguyên soái thông văn đạt võ điều khiển thiên binh vạn mã. Chỉ
hiềm vị trí ở Mùi là luôn luôn ở thế bị động chỉ tìm cách chống đỡ (Mộc) thế
công ở Sửu (Kim) . Đối phương từ Đồng – Cơ đến Hà – Sát, Kiếp – không, Toái –
Kỵ, một đoàn quân từ cấp chỉ huy đến ba quân chỉ biết đem rải khắp đó đây sự
khủng khiếp mạnh ai nấy vơ vét, rồi ra cũng chẳng nên trò trống gì ở vị trí
Thiên – Không chính vị (Thìn Tuất Sửu Mùi).
Quân Nguyên bắt đầu khơi quân
sang xâm chiếm vào tháng 10 năm Quý Mùi (1283) cho đến trận thất bại cuối cùng
ở Bạch Đằng Giang vào tháng 3 năm Mậu Tý (1288), tức là giai đoạn Hưng Đạo
Vương đi vào cung Tý (56 – 65) tức là giai đoạn thẳng thế nhất đời của Vương ở
thế chính Thái Tuế, chứ bộ Sát Phá Tham này chẳng có gì là tốt đẹp (hãm địa)
quân thần tả sứ thiếu be bét, được một Linh (Thìn) phụ tá cho cấp chỉ huy mặt
trên Tham – Lang là hợp cách, còn Thất Sát , Phá Quân như là chịu trận không
một chút khả năng chống đỡ, hèn chi Vương phải mấy phen phò giá rời bỏ Long
Thành.
Đứng về phương diện số, trường
hợp Vô Chính Diệu như 2 lá số của Lê
Thái T ổ và Hưng Đạo Vương phải kể là 2 trường hợp đắc cách
nhất. Một đằng tuổi Kim đắc sát tinh đắc địa thủ mệnh, một đằng Hỏa mệnh đắc
Tuần thâu hút Âm Dương là 2 kiểu điển hình xếp theo giá trị. Dĩ nhiên hai số
này phải sắp xếp sau số của Đại đế Quang Trung tuổi Nhâm Thân (Kim), mệnh đóng
ở Thân (Thái - Tuế) có Thất – Sát thủ mệnh (Kim). Nguyên một chi tiết nhỏ
cũng đủ thấy một vị anh hùng không biết cái thua là gì.
Xét về công – nghiệp thì Đại vương Qu ốc Tuấn với cái thân
thế là một danh thần phải kể là quá lớn lao đối với tổ quốc dân tộc thì ngàn
thu hương khói chỗ Linh – địa Vạn – Kiếp cũng là rất xứng đáng với lòng dân thờ
kính, tuy vậy vẫn còn lẽ thiệt thòi, so sánh với 2 vị Đại đế , phải chăng là ở
vị trí Long Đức, định mệnh đã đặt để.