CÂU CHUYỆN THỨ NHẤT : CHÚA TIÊN
HỒI MỘT :CUỘC ĐỜI CỦA CHÚA TIÊN TRÊN BÁO
PHÁP
Chủ báo HENRI DE MASSIAS hồi thời kì đó
đang sưu tập các dữ kiện để viết về cuộc đời li kì CHÚA TIÊN trên báo AVENIR DU
TONKIN dưới nhan đề :" LA vie merveilleuse de Betty la Tonkinoise. Độc giả
HN, cả ta lẫn tây, đều hiểu BETTY là tên ĂNGLÊ đặt cho cô BÉ TÝ HÀNG BẠC. Trong
các nhân tình cô bé Tí, không ai biiết rõ, viết nhiều về cuộc đời cô bằng De
Massias. Có lẽ do đó, nàng cưng nhất chàng DON JUAN đĩ điếm này. Massias cũng
như hầu hết các nhân tình mết CHÚA TIÊN không phải chỉ vì nàng đa tình, da thịt
thơm tho hấp dẫn mà còn vì nàng thông minh và linh mẫn như hồ li, khiến chồng
và tình nhân nhiều phen lúng túng, bối rối trước những c6au hỏi hóc búa của
nàng mặc dù họ học cao, còn nàng gần như thất học. Về điểm thông minh và linh mẫn
này, DE MASSSIAS có kể về nàng như sau:
BETTY là cô gái nhà quê, được ba má nuôi
là vợ chồng công sứ HƯNG YÊN cho học tiếng PHÁP truyền khẩu, thực hành ngay
trong gia đình nên 5,6 năm sau đã nói thông PHÁP NGỮ. Cái giá trị ăn khách của
BETTY ở chổ đó. Các quan thầy coi nàng như con chim lạ miền Bắc vì hồi đó hiếm
có gái AN NAM nào thạo tiếng Bắc như nàng. Phải nói là họ bị BETTY chinh phục
hơn là họ chinh phục BETTY. Không những này trẻ đẹp, sạch, thơm hơn người nữ
A6u, nàng còn khéo o bế, chiều chuộng nên không người tình nào thất vọng vì
nàng.
Tuy nhiên, BETTY cũng rất khó tính, cái
khó tính tạo ra cái oai của nàng đối với đàn ông. Thái độ khó tánh, cửa quyền
này tuy không đẹp nhưng các nhân tình vẫn khoái BETTY, có lẽ vì họ thấy ít có
me tây AN NAM nào giống nàng do đó rất quí nể không dám coi thường nàng như các
me khác.
Cuộc đời BETTY là cả một huyền thoại
đánh đấu bởi những cuộc phiêu lưu đầy kịch tính. Nàng là con út trong một gai
đình 3 con, cha làm ĐỀ LẠC, bị thất lạc cha từ nhỏ, bé thánh con cưng của vợ chồng
viên công sứ HƯNG YÊN J. Simoney, với tên Tây là FELICIE. Bà công sứ, nguyên
con gái viên CHÁNH TỔNG ở CẦU NGÀNG, vì hiếm hoi nên rất quí chiều cô bé, cử một
cô khâu đứng tuổi phục dịch, chăm sóc bé và một con hầu nhỏ làm bạn chơi đùa.
Viên công sứ còn sai một thầy thông dạy bé học quốc ngữ và tiếng Tây. Thấm thoắt,
sau mấy năm, Bé lột xác thành cô bé dậy thì 17 tuổi, đẹp ngoan, biết chữ. Năm
đó (1905) dịch hạnh đen bỗng hoành hành trong vùng Trung châu. Vợ công sứ
Simoney chẳng may mắc dịch chết giữa lúc BÉ mơn mởn như trái chín đầu cành. Bà
mất chưa đầy tháng, thì một đêm, Bé bị bố nuôi làm nhục, khóc vùi đến sáng, rồi
cách một ngày sau bỏ nhà trốn biệt. Simoney sai lính và nhân viên bổ đi kiếm mấy
ngày không thấy. Bé Tý đi tàu thuỷ lên HÀ NỘI, đem một vali đồ vật dụng vá tế
nhuyễn gồm một số nữ trang, vàng ngọc khá bộn của mẹ nuôi và tư trang riêng,
trên 1000 đồng dành dụm 5,6 năm đủ nuôi sống bé vài năm nếu không ăn sài huy
hoàng.
Con nai vàng ngơ ngác vừa dính mũi đầu đời,
chân ướt chân ráo , không thể nào ngờ chỉ 3 năm sau, nàng trở thành CHÚA TIÊN động
HÀNG BẠC, ngồi dương cơ đồ sộ cách chổ nàng lên bến hôm đó không đầy 300 thước.
Bé Tí bỡ ngỡ như chim lạc trong rừng cố đô miền Bắc. Khi đi ngang qua nhà hàng
:" GÀ TRỐNG VÀNG", bé cảm thấy đói, xuống xe vào ăn. Và từ bữa đó,
nàng là khách trọ cô đơn trong nhà hàng này. Thấm thoắt bé ở khách sạn được KIM
KÊ được tròn năm. Thiếu gì những Tây trẻ có già có ngắm nghé tống tình, làm
quen bắt bồ, song nàng vẫn thản nhiên với bề ngoài luôn luôn trang nhã, lịch
thiệp khiến các con ong cánh bướm Tây lắm phen ngẩn ngơ bối rối.
Nhưng rồi ngồi ăn núi lở, sốtế nhuyễn, của
riêng tây của bé làm sao đủ cung ứng lâu dài cho nếp sống "ô ten" nhà
hàng của bé giữa HÀ THÀNH hoa lệ. Trong lúc tiền bạc cạn dần, Bé đang lo tính
tương lai thì thần tài râu bạc gỏ cửa nàng một cách gay cấn li kì
HỒI HAI : ĐẮM TÌNH, TIỀN, CŨNG LẮM TRUÂN
CHUYÊN
Mấy tháng sau, bé Tý bắt đầu lâm cảnh
túng thiếu, nàng phải bán đôi xuyến cuối cùng để thanh toán tiền nhà hàng. Rồi
một cứu tinh đến với nàng.
Lúc ấy, quan ba Bounet từ Nam kì chỉ huy
một tiểu đoàn bộ binh BẮC PHI điều động ra Bắc đánh ĐỀ THÁM vừa âm mưu đánh úp
HN ngày 15-11-1907. Trong khi chờ biên chế vào đệ nhị lữ đoàn của đại tá
BATAILLE, viên BaBOUNET tạm trú nhà hàng " gà trống vàng" trên lầu gần
phòng Bé. Một hôm vì vội vã sơ ý, y đẩy lầm cửa vô phòng Bé, thấy nàng vận đồ
ngủ mỏng na92m nệm trắng, lệt đật nghiêng mình xin lỗi. Thay vì bị trách mắng,
BONET được đáp lại bằng nụ cười tha thứ đượm vè tình tứ. Trưa hôm sau, chờ nàng
rời phòng , Bonnet chào, xáp lại mời nàng xuống cùng ăn để được lặp lại lời cáo
lỗi hôm trước. Sau vài ngày, hai bên thành đôi tình nhân gắn bó. Viên quan Ba
cũng vừa lãnh số tiền truy cấp khá bộn đưa Bé giữ. Tuần lễ sau, nhận lệnh hành
quân, Bonnet đành tạm từ biệt người đẹp lên đường.
Hồi đó, Pháp huy động toàn lực mở chiến
dịch dưới quyền chỉ huy của Quan Năm Bonifacy, thanh toán một lần cho xong quân
ĐỀ THÁM. Chiến dịch kéo dài 03 tháng. Vì vậy, Quan Ba của Bé bị cầm chân, nhưng
vẫn gửi lương tháng về cho Bé ở nhà hàng. Tháng 2 -1908, quân Bảo Hộ phát giác
được chiến khu mới của ĐỀ THÁM trong rặng núi Láng, gần Tam Đảo. Bonnet chỉ huy
một tiểu đoàn làm nút chận, án ngữ để sau núi Láng để đại quân Bonifacy tấn
công hai mặt Tây, Nam vào chiến khu....Bonet bị trúng đạn ở lưng, lập tức được
tản thương về HN, nhưng đã tắt thở dọc đường.
Bé Tý ở khách sạn đâu có hay. Hai tháng
sau, không nhận được tiền gửi về nàng đoán người tình đã tử trận và từ đó chuỗi
ngày đen tối lại một nữa đến với nàng. Một hôm, có một quan Tây râu xồm đến gỏ
cửa phòng cô, xuất trình một bì thư cô nhận ra là thơ cô gửi cho BONNET và , tự
nhận là Quan Tư cấp chỉ huy quan BA xấu số. Bé cảm ơn, gọi bồi bưng rượu lên
đãi khách rồi mời ăn trưa trong phòng, viên quan TƯ không từ chối. Trong bữa
ăn, hai bên trò chuyện mỗi lúc một thân và từ đó Bé lại cặp với quan Tư
Lastelle, CHỈ HUY TỈNH ĐỘI bắc Giang.
Một hôm, y đem về gửi nàng giử dùm một
bình vôi bằng vàng 5 kg và một cái ang bằng sứ Tàu cổ (không rõ cái ang là cái
gì nữa). Hai báu vật này do Lastelle đoạt được trong các cuộc hành quân....Sau
đó, bẵng đi mấy tháng, viên quan Tư không trở về HÀ NỘI. Chẳng biết hỏi ai, bé
Tí đi Phủ Lạng Thương mới hay nhân tình của cô đã mất vì bệnh dịch tả không kịp
đưa về HN. Thế là trời cho cô số vàng vô chủ này.
Cô Bé sau khi được chiếc bình vôi vàng nặng
5 kg đã bắt đầu tính bỏ cuộc sống gái khách sạn bằng cách kết giao với những bạn
cùng phái ở HN. Mục đích là muốn kiếm đường làm ăn tìm đến cuộc đời tốt đẹp
lương thiện hơn.
Bé nán lại khách sạn vài tháng hết năm
1908, ra giêng mới ra phố tậu nhà, mở tiệm buôn bán. Tiếc thay, số cô không phải
số buôn bán, kinh doanh nên cô gặp một cuộc tình duyên mới, lần này không phải
quan binh mà là dân sự rất giàu, ảnh hưởng quyết định đến cuộc đời oanh liệt của
cô.
HỒI BA : TÂY CHỦ MỎ VÀNG
Pháp kiều này là Jean Broussais, một
trong những chuyên gai khẩn mỏ Pháp đầu tiên đến ĐÔNG DƯƠNG từ 1902-1903 và
cũng chính là người đã khám phá nhiều mỏ quặng tại Ngân Sơn, chợ Điền, chợ Đã
và mỏ vàng tại suối rít, Hoà bình....đã trở thành triệu phú nên hồi đó người ta
quen gọi là Tây chủ mỏ vàng. Broussais vừa trở lại miền Bắc sau 03 tháng về
Pháp nghỉ sua hai năm goá vợ, sang Bắc kì 6 năm nay TÂY CHỦ MỎ VÀNG không lấy
ai trước Bé. Nay gặp nàng y như bị trúng tiếng sét. Sau một thoáng dò xét tư
cách thấy Bé tư cách đàng hoàng, BROUSSAIS kết nàng làm vợ.
Thế là sau đó, Bé nghiễm nhiên thành bà
chủ mỏ vàng mặc dù không có giá thú. Chỉ sau 1 năm rời khách sạn :" gà trống
vàng", Bé tý là chủ một dương cơ nguy nga, sang trọng nhất nhì Hn bấy giờ,
tôi tớ cả bầy, tiền của như nước, được gọi là bá chủ mỏ vàng, có người gọi là
bà lớn. THỰC RA TIỀN CỦA NÀNG KHÔNG CHỈ KHÔNG PHẢI CHỈ BROUSSAIS CUNG CẤP MÀ
CÒN NHIỀU BROUSSAIS KHÁC CUNG HIẾN NÀNG. Một số bạn Tây cùng ở nhà hàng với Bé
trước ngày Bé lấy Tây mỏ vàng, thấy chồng Bé hay vắng nhà bèn đến thăm, họ lại
giới thiệu thêm một số bạn thân khác.
Với tất cả 28 chồng liên tiếp, kể từ
Broussais đến cả trăm nhân tình lai rai suốt 36 năm vang bóng, Bé Tý đã vận dụng
nhiều tiểu xảo gây ảo tưởng cho họ cô là người chung tình chỉ yêu có họ mà
thôi. Và nếu họ chợt thấy một đàn ông nào khác trong nhà cô thì đó là ....bạn
chồng rất thân đến chơi lúc cô đi vắng (cái này không hiểu tiểu xảo này lắm)
Cô từng tâm sự với cô TƯ HỒNG rằng, bận
tâm lớn nhất mỗi ngày là việc "canh giờ" như người BẺ GHI cho xe lửa
khòi đụng nhau. Mắc dù chu đáo từng chút nhưng đi đêm có ngày gặp ma. Một hôm
Bé tiếp một viên quan Năm vừa ra đến cửa thì Tây mỏ vàng về đến nơi. Lần đầu bắt
gặp quan binh Tây trong nhà đi ra, BROUSSAIS NỔI GHEN VÀ CẮT ĐỨT QUAN HỆ.
Về phía bé Tý , sau ngày bỏ chủ mỏ vàng,
trở thành một thiếu phụ xinh đẹp, tương đối tự do tiếp các nhân tình, không còn
thấp thỏm nhiều như trước,. Trong khoảng 7, 8 năm đứt với Tây mỏ vàng, Bé đã
liên tiếp lấy thêm 3,4 chồng và thường xuyên có vài chục nhân tình lẻ. Hầu hết
đều là quan binh, quan chức cao cấp và dân sự bự, mỗi tháng tối thiểu mỗi người
bao nàng ....Như thế mỗi tháng cô Bé nếu muốn có thể tậu 2 nhà lớn hoặc trên 20
mẫu ruộng hoặc hơn 300 lượng vàng ( nói vàng dễ hiểu giàu cỡ nào nhất). Đến năm
1919, Tây mỏ vàng chết, bé Tý trở thành triệu phú thực sự ( hơn tỉ phú thời bây
giờ - trước 1974, còn so với bây giờ chắc đại tỉ phú quá) năm nàng tròn 30 tuổi.
Kể từ 1910, Bé tý đã giàu có lớn, nhà cửa
trang hoàng, trần thiết kế kiểu ĐÔNG PHƯƠNG lộng lẫy như dinh phủ vương hầu, đầy
những bảo vật, đồ cổ trung hoa quí hiếm, đặc biệt nhất là một anh sứ cổ KHANG
HY (Anh sứ này nguyên của một đại tá Pháp dự trận BÁT QUỐC DẸP QUYỀN PHI, năm
1900, đột nhập Cấm Thành Bắc Kinh, đoạt được trong cung nội MÃN THANH rồi sang
tay Passignat mua được cho bé Tý
HỒI PHỤ: SỰ TINH KHÔN CỦA BÉ TÝ
Quán làng an thổ, Ninh Giang Hải dương,
cô bé Tý là một trong những me Tây lớn hiếm hoi hồi đầu thiết lập nền bảo hộ tại
BẮC KÌ (1886). Thời đó, cô và cô Tư hồng oanh liệt lẫy lừng hơn cả, hơn cả 2
Cô BA TRÀ, BẢY LIỄU SÀI GÒN dù hai cô này nhiều nhân tình lớn như tướng Giel,
phó thống đốc Boutignac, LE jOL, nguyên chánh văn phòng Toàn quyền A. Saraut, ĐỔNG
LÍ TOÀ KHÂM HUẾ, PHÓ THỐNG ĐỐC ROCHAT....Ba chục năm đầu thế kỉ này là thời kì
vang bóng một thời huy hoàng nhất của bé Tý. Lắm chồng, nhiều nhân tình, tiền của
vào tay cô như nước.
Sau ngày đoạn tuyệt với bé Tý vì bị bé
Tý phỗng tay trên nhân tình của cô Tư Hồng, cô Tư Hồng thường nói với những ai
biểu cô giàu rằng:" tôi giàu thấm đâu so với con bé Tý. Nó có dư cả trăm
cây vàng rồng do các chồng và nhân ngãi Tây Tào cho nó. Nhưng nó kín lắm, không
dám gửi nhà băng, cũng chẳng dám giấu trong tủ trong rương vì sợ bị cướp. Nó
nghĩ ra 1 mẹo thật hay để đánh lạc hướng kẻ gian. Nó sai 2 gia nhân đi mướn 2
toán thợ đúc ở hai làng xa nhau, đưa về HN ĐỂ ĐÚC HAI PHO TƯỢNG Mẫu tại hai trại
của nó ở vùng ngoại ô. Hai tượng này giống nhau, nhưng 1 đúc bằng vàng thật,1 bằng
đồng. ĐÚC XONG PHO TƯỢNG VÀNG , NÓ ĐEM BIỆT ĐẾN 1 NƠI B1I MẬT, GỌI THỢ SƠN BÊN
ĐÌNH BẢNG, CHỢ DẦU sang tô sơn phủ che lớp vàng như một tượng gỗ hay đá rồi bao
kín bằng vải điều, đem về thờ trên lâu điện HÀNG BẠC. Còn pho tượng bằng đồng,
nó mướn thợ ở HÀ NAM lên sơn phết rồi đem cung tiến một ngôi đền thờ Mẫu SÒNG
SƠN ở HN. Tin con Bé đúc tượng Mẫu cung tiến đồn ầm lên trong giới bà Bóng Bắc
Hà nhưng mấy ai biết nó cùng lúc đúc tượng vàng trăm kg thờ trong điện che mắt
bọn gian phi.
HỒI BỐN: ĐỒNG BÓNG
Giàu lớn rồi, cô bé Tý cũng như lắm bà
đang nghèo hoá giàu, đua nhau nhập tịch giới khăn chầu áo ngự. Cô nổi tiếng là
đồng bóng lẫm liệt. Từ Bắc vào Trung, không đền to phủ lớn nào cô không đến
hành hương. Các bà đồng quan đàn chị đều quí nể vì cô khéo xử và hào phóng. Cô
có 4 rương lớn bằng gỗ bạch đàn mặt ngoài sơn vẽ tứ linh, mặt trong để mộc thơm
phức đựng đầy khăn chầu áo ngự thượng hảo hạng mà ít bà bóng đương thời, kể cả
các bà đồng quan có nổi 2 chiếc. Đặc biệt, khăn áo đều bằng nhiễu và gấm đoạ
Thượng Hải, không mấy bà Bóng thời đó đủ tiền mua sắm. Các nữ trang đều bằng ngọc
và vàng trong khi các bà khác chỉ có đồ giả, đồ mạ, một rương đầy đồ hầu mẫu, một
đựng đồ hầu các ông lớn ông hoàng, một đựng đồ chúa Thượng Ngàn....Ngoài ra, một
giá gương bằng vàng 18k cao hơn 2 gang nguyên của một nữ hầu tước Pháp do một
ông chồng Tây mua tặng cô trong một tiệm đồ cũ ở MẠC XÂY.
Trong ngôi nhà Tây hai tầng giữa phố
Hàng bạc, cô tôn điện thờ Mẫu nguy nga chẳng kém ngôi đền. Một cung văn trẻ hát
chầu trong điện có soạn một tập vè lục bát, ví toà nhà HÀNG BẠC như là ĐỘNG
TIÊN. Không hiểu ĐỘNG TIÊN trên trời đẹp như thế nào chứ ĐÔNG TIÊN HÀNG BẠC thì
thập phần lộng lẫy. Toà nhà lớn bên ngoài bày biện đầy đồ cổ quí giá như: ngọc
ngà, đồng, sơn, sứ từ đời Chu đến Thanh trị giá thử thời đến bạc triệu. Bên cạnh
toà nhà là một sân ngổn ngang lồng, chuồng, nuôi đủ thứ kì cầm dị thú.
....Những ngày có đàn tam tứ phủ, tha
thướt các ba 2 bóng, khăn xanh áo đỏ chẳng khác nào động tiên hạ giới trong ánh
đèn khói nhang và đàn hát nhã nhạc. Vì thế cô bé Tý được thần thánh hoá là CHÚA
TIÊN.
Read more:
http://tuvilyso.org/forum/topic/23822-48-co-be-ty-hang-bac-khhb-so-74c2-va-74d1/#ixzz3g2GEzXh0
=========
Siêu tài liệu: Thầy bói lợn đoán số Cô
Bé Tý Hàng bạc
Linh Xuyên
Số Bé phải xa cha 28 năm – Suốt thời
gian này, sao Bé không về làng thăm cha? Trường hợp ly kỳ Bé Tái ngộ cha – Tình
cờ định mệnh giữa vụ thoát ly và đoàn tụ của Bé – Những “tài ngoại” của Bé dưới
ngòi viết chủ báo “Avenir du Tonkin”
(Đoạn tiếp của câu chuyện kể đời sống bà
Bé Tý hàng Bạc Hà Nội)
Thầy bói Lợn
Từ ngày bé đi biệt khỏi làng, thầy ĐỀ
VĂN GIẢNG nhớ con hoài. Bảy năm sau, nhân đi dự đám tang người anh họ ở làng BẦN
YÊN NHÂN, thầy đề nghe danh thầy bói LỢN ngày đó, chừng 30 tuổi đã nổi tiếng
coi hay tại chợ ĐƯỜNG CÁI. Vì bệnh trái trời nặng, lòa hai mắt , mặt rỗ, thầy
bói khụt khịt mũi như lợn nên có hỗn danh này.
Thầy Đề đặt tiền coi quẻ tìm con thất
tung, Thầy Lợn gieo quẻ xong, quyết ngay là lúc này chớ đi tìm kiếm vô ích, mòn
giầy dép cũng không thấy, dù tình cờ qua cửa nhà con hay đi ngang mặt con giữa
đường cũng không thể gặp nhau.
Thầy Đề hỏi:"tại sao?". Thầy
nói Lợn đáp:" số mệnh nó khiến xui như vậy....vì cha con phải cách xa nhau
28 năm"
Thầy Đề lại hỏi:" có hi vọng tìm thấy
sớm hơn hoặc tự nó nhớ gốc, nhớ cha quay về?". Thầy Lợn lắc đầu rồi hỏi về
ngày sinh tháng đẻ của Bé, lâm râm bấn tử vi, cho hay là ít cũng phải 20 năm.
Cha con chia lìa nhau thì cũng sẽ bất ngờ đoàn tụ thật li kì hi hữu.
Thầy Đề lại hỏi:" nó đến nay đã 18,
19 tuổi chẳng biết trôi dạt nơi đâu? Có gặp chốn lương thiện tử tế không?"
Đa nhân đa duyên
Thầy Lợn khụt khịt cười đáp:" nói
cho ông anh mừng con nhỏ này làm lớn đến nơi. Số nó thật đáo để. Có nó ra đời
thì không cha mẹ, hoặc phải ly cách cha mẹ. Số nó mệnh VCD, lập tại Tí, lại đủ
Khôi Việt , Tả hữu, thêm Quyền Lộc, Xương Khúc chiếu lại là nó thừa tài làm nên
danh giá"
Thầy Lợn khựng lại một lúc rồi tiếp"
hiềm nỗi con nhỏ đủ bộ Tham Diêu, Mộc Cái, Hồng đào, thêm Phượng Long đối chiếu
Khốc Hư thì hơi....đa đa nhân duyên đấy. Giá mà số này có Tử Phủ nhập miếu ở hạn
thì chẳng khác số bà Chúa CHÈ thuở trước. Dầu chẳng được vậy, đây cũng là số cận
quí, giàu sang lẫy lừng 1 thời"
Thầy Đề lại hỏi:"Nếu lẫy lừng 1 thời
rồi lụn bại thì hi vọng gì?"
Thầy Bói lắc đầu đáp: "Số bất cứ ai
cũng vậy chỉ lẫy lừng 1 thời, dài hay ngắn, như hoa chỉ nở 1 lần rồi tàn sớm
hay muộn. Số con nhỏ này đáo hạn ĐỊA KIẾP có thể sẽ hết của như THẠCH SÙNG nếu
không làm điều phúc đức. Nhưng ngày đó cũng còn lâu khi con nhỏ tuổi về chiều
và ông anh lúc đó cũng đã được nó đền đáp báo hiếu đầy đủ.
Thật ra, thầy Đề, lúc đó, chẳng mấy tin
tưởng lời thầy bói. Chính cả thầy Lợn cũng không thể ngờ 20 năm sau thầy 49, một
sáng kia, cũng buổi chợ đông như bữa đó, có một xe hơi lộng lẫy từ phía Hà Nội
sang đậu xịch bên lộ, bước xuống một ông lão vận đồ lụa bạch, đội nón lông ngan
đen chóp bạc, theo sau là một thiếu phụ sang trọng len lách qua đám đông đến
quán thầy bói. Ông lão ngồi xuống đầu ván, cất tiếng hề hề cười.
Nhớ giai
Thầy Lợn ngẩng mặt, lẩm bẩm: "Quái!
Giọng ai nghe quen quen....nhưng đã lâu không tới coi"
Ông lão khà khà cười:" phải, 20 năm
qua mới đến thầy đây!"
Ông Lợn khụt khịt, nghiêng tai về tiếng
khách lạ:" Ai nhỉ....ông khách dưới NINH GIANG?"
Ông lão cười rộ :"Chịu thầy nhớ
dai! Văn Giảng đây
A ! Cụ Đề đã tìm thấy con gái ? Đến thưởng
đệ phải không?
Ông lão tủm tỉm cười xua tay ra dấu cho
thiếu nữ đừng lên tiếng rồi nói: "Đến trách thầy, chứ thưởng gì. Con gái
đã thấy đâu. Năm đó, thầy đoán trong 20 năm nay đã 21, 22 năm rồi, vẫn tuyệt vô
âm tín. Lão nay đã 74 biết sống đến bao giờ mới gặp con?"
Thầy Lợn hoài nghi, chau mà : "Nếu
quả vậy, tôi coi lại cho cụ một quẻ xem sao"
Ông lão gật đầu, lấy trong hầu bao đồng
ván 2 cắc bạc đặt vào đĩa. Thầy bói khấn, gieo tiền, ngồi im bấm quẻ rồi lắc đầu:"
có lẽ cụ muốn thử tôi, chứ quẻ này “Úp cối" là cụ gặp con rồi"
Ông Lợn lại khảo lại số tử vi ông lão rồi
lẩm bẩm nói 1 mình: "Quái thật! số này năm nay không tháng 3 thì tháng 7
cha con phải đoàn tụ, sao nay sang tháng chạp mà vẫn chưa ?"
Một chuỗi cười dòn vang lên, ông lão ôm
chầm lấy vai thầy bói cười :" Xin chịu thầy, thần bốc TRẦN ĐOÀN tái sinh!
Bữa nay cha con lão đến tạ thầy đây"
Hạn Địa Kiếp
Chúa Tiên Hàng Bạc mở ví lấy xấp bạc 10
đồng đưa cho cha...Sau khi trao số bạc vào tay ông Lợn, ông lão hỏi nhỏ:"
Năm xưa, thầy đoán con tôi đáo hạn địa kiếp hết của như THẠCH SÙNG, vậy hạn đó
năm nào....và có cách nào cho qua khỏi được chăng?"
Thầy bói trầm ngâm giây lát đáp: "
Hạn này còn lâu, hơn giáp nữa, vào năm ẤT MÙI ( 1956) nhưng có thể hoá giải được
phần nào nếu đương số tu nhân tích đức, tránh sát giới, của cải sẽ bị tán phát
1 nửa, còn lại 1 nửa không đến nỗi trắng tay hết sạch"
Lời thầy Lợn làm cô bé Tý biến sắc, ông
lão khuyên con đừng đi xe hơi, lo cán chết người, vật sẽ mang tội. Khi về tới
HN, nghe lời thầy bói, cô vội bán lại chiếc Donnet Zedel mới cho chủ hãng
Aviat, sắm 1 xe kéo lộng lẫy, đẹp nhất HN do 1 phu xe vận đồ trắng, nón trắng,
quần xà cạp trắng " hách " nhất cố đô, kéo đi đó đi đây trong thành
phố, theo sau là 1 phu hầu ăn mặc đúng y, đóng vai vệ sĩ chạy bám đít bánh xe
khiến khách qua đường đều chú ý.
Cuộc tái ngộ ly kỳ sau 28 năm…
Kể từ 1910, Cô Bé Tý đã giầu có lớn, nhà
cửa trang hoàng, trần thiết kế kiểu Đông Phương lộng lẫy như dinh phủ vương hầu
đầy dẫy những bảo vật, đồ cổ Trung Hoa quý hiếm. Muốn dương danh khoe của Cô mở
động cho dân chúng thong thả vào coi. Từ năm 1924, cửa mở cách một ngày một lần,
nhưng từ 1930, nhà cầm quyền Pháp chỉ cho mở chủ nhật và ngày lễ. Người vào coi
xếp hàng một nối đuôi trước cổng. Một hôm, có ông lão quê đến nhập bọn, lần bước
sau toán người vào coi. Lối đi trong động hẹp ngang, đủ cho chuỗi người nối gót
tiến lên vì 2 bên đều kê san sát tủ, xập, kỷ, án, bình phong chạm trổ, sơn thếp
hoặc cẩn xà cừ, ghép ngọ ngà châu báu. Trên mặt thì bầy la liệt đồ cổ ngoạn bằng
đồng thiếc, ngọ, ngà, hổ phách, san hô, bảo thạch, đồ sứ cổ Tàu từ đời Thanh đến
Chu, tổng trị giá ngày đó đến nửa triệu bạc. Người vào coi – Dù sành điệu hay
không – cứ chầm chậm bước một vừa đi vừa ngắm xem, không ai được xáp gần, sờ mó
các đồ vật trưng bầy. Theo bén gót người phía trước, ông lão quê đang mải ngắm
bộ bình đông bích đồ thứ 6 cánh cần ngọc vàng…bỗng la lên chu choa, nhăn nhó,
thụp xuống ôm lấy chân làm cán ô cong kẹp nách ngoắc phải miệng một ang sứ cổ
Khang Hi từ trên kỷ lộn rớt xuống bể tan tành (Ang sứ này nguyên của một đại tá
Pháp dự trận Bát quốc dẹp Quyền Phi năm 1900, đột nhập Cấm Thành Bắc Kinh, đoạt
được trong cung nội Mãn Thanh rồi sang tay Passignat mua được cho cô Bé Tý).
Thì ra ông lão có mụn lở gót chân buộc thuốc sơ sài. Người đi sau, lúc cất bước,
vô ý đá trúng phải, làm ông lão đau điếng, lóng cóng gây ra vụ bể. Ông lão run
sợ, khóc lóc lạy van. Ai thấy cũng ái ngại, nhưng phải chờ Chúa Tiên về…Vì sợ
trách nhiệm, viên quản gia quát tháo nhốt ông vào nhà cầu. Y trở ra xua hết người
coi, đóng cửa lại rồi xuống nhà giật mình thấy cửa cầu tiêu mở, đẩy vô, không
thấy ông lão. Hốt hoảng, quản gia làm um xùm, thúc gia nhân túa các ngả tìm kiếm.
Ai vừa giải cứu ông lão? Gã phụ bếp giầu lòng thương, ghét quản gia phách lối,
nhân lúc mọi người bận nhà trên, đã lén mở cửa nhà cầu, đưa ông thoát lối sau.
Vì không thuộc phố phường Hà Nội, ông lão vừa đi vừa hỏi đường, loanh quanh đến
Phố Mã Mây bỗng có tiếng thình thịch chạy sau lưng ông chưa kịp ngoái cổ thì bị
gã quản gia túm tóc đánh…Người đi đường xô tới can ngăn. Gã quản gia kéo xềnh xệch
lão về Hàng Bạc, hô gia nhân lấy dây trói, bỏ nằm cầu tiêu, khóa cửa lại. Ông
lão tủi nhục nằm khó dấm dít đến trưa chiều, chẳng ai cho ăn uống: Mãi tối, bà
Chúa đi dự đàn tứ phủ trên đền Đức Vua dốc Yên Ninh cùng 2 cô gái nuôi mới về.
Cả nhà đổ ra đón, bưng các tháp quả phẩm lộc, đồ biếu vào. Quản gia trình Chúa
Tiên vụ bể ang và thủ phạm, ông lão, vì trốn khỏi nhà đã bị bắt lại, nhốt trong
buồng vệ sinh, chờ lệnh Bà Chúa. Nghe nói ông lão đau chân loạng quạng làm bể đồ,
Chúa Tiên biểu cởi trói, dẫn lên vào phòng thay áo trở ra thấy ông lão mặt mày
hốc hác bị quản gia bắt quì dưới đất, Chúa Tiên không nỡ, biểu đỡ dậy, lấy ghế
cho ngồi, hỏi ăn uống gì chưa? Ông lão lắc đầu xin hớp nước đỡ khát. Bà Chúa
sai người đưa xuống bếp cho ăn uống tử tế xong dẫn lên. Chúa Tiên ôn tồn hỏi
sao đến coi lại không cẩn thận để ý làm bể bảo vật của Bà? Ông cụ mếu máo kể từ
lúc nối gót người vào coi đến lúc thình lình bị đá vào mụn, đau quá luýnh quýnh
cán dù móc phải ang rớt bể rồi bị giữ. Chúa Tiên vặn hỏi đã vậy, sao còn chạy
trốn? Lão thưa:
-Không phải vậy. Lão không dám tự ý trốn
đi mà…do một chú tử tế thương hại mở cửa nhà cầu dắt lão ra cổng sau, trỏ đường
biểu trốn. Chẳng may phố xá không rành loanh quanh hỏi thăm ra tới bến, định đi
Hưng Yên thăm con, đến gần Cột Đồng Hồ thì bị thầy quản gia túm đánh, lôi kéo về
nhà, cột nhốt trong nhà xí!
Lai lịch ông lão quê
Chúa Tiên nghe sinh lòng bất nhẫn nói:
-Giờ lỡ đánh vỡ đồ quý của tôi thì phải
đền!
Nước mắt chạy quanh, ông lão mếu máo chắp
tay xá:
-Bẩm Bà Chúa, lão quê mùa nghèo khó, sống
trơ trọi, không có tiền đền Bà Chúa
-Thế con cháu đâu mà lại sống trơ trọi?
-Lão có thằng lớn gần 50, mới đây cả vợ
chồng đều bị chết bệnh thời khí. Chúng có 2 con: 1 đứa đi lính Đoan 8, 9 năm
nay không thấy về; còn 1 đứa 17 ở đợ làng bên. Lão còn 1 gái nữa, lấy chồng
hàng Huyện, đăng lính Khố Xanh vừa đổi sang Hưng Yên. Với lương cai Khố xanh, vợ
chồng nó nuôi sao nổi 7, 8 đứa con, nói chi giúp đỡ cha già?
-Vậy, lão làm cách nào sống?
-Nhờ biết năm ba chữ thảo được lá đơn, bản
văn tự (giao kèo mua bán vay mượn) làm sớ trạng cúng kiếng, ngoài ra hằng ngày
và dịp Tết nhất, có người mướn viết châm, liễn đối trướng hiếu hỉ, nên cũng tạm
sống qua ngày.
-Ngoài hai trai, gái đó, có còn con nào
khác không?
Câu hỏi khiến ông lão bùi ngùi
-Bà Chúa hỏi thêm đau lòng. Lão lận đận
vất vả, mới 40 đã gà trống nuôi 3 con
Chúa Tiên bỗng đanh nét mặt
-Ông lão nói có 2 con: 1 trai, 1 gái.
Con Trai và dâu mới chết dịch; con gái lấy chồng khố xanh sao lại vừa biểu nuôi
3 con? Đứa thứ ba ở đâu?
-Dạ, đứa thứ 3, chẳng rõ nó ở đâu? Còn sống
hay đã chết? Nghĩ đến nó, lão cầm lòng không nổi. Nay thấy mặt nó một lần, lão
nhắm mắt cũng thỏa lòng.
Chúa Tiên chớp chớp mắt nén xúc động hỏi:
-Đứa thứ 3 này trai hay gái?
-Bẩm, cháu gái.
Chúa Tiên hơi biến sắc, hỏi:
-Con gái nhỏ ở với ông Cụ, sao lại không
biết nó ở đâu? Sống hay đã chết?
Ông lão tần ngần chưa kịp đáp, Chúa Tiên
hỏi tiếp:
-Hay là nó bị mẹ mìn, kẻ nào bỏ bùa dỗ
mang sang Tàu bán?
Ông lão lắc đầu:
-Không ai dụ dỗ mà tự nó ra đi
-Gì lạ vậy? Tự nó ra đi như người lớn?
Quả là chuyện lạ, ít thấy!
Ông lão bèn kể đầu đuôi chuyện sai cái
Tý Ba, gái út đem be ra đầu làng mua rượu chẳng may té, be bể, miểng đâm tét
đùi rồi sợ đòn cha, không dám về, đi biệt tăm từ đó…nay đã tròn 28 năm.
Nghe đến đây, Chúa Tiên bèn khoác tay ra
dấu cho kẻ ăn người làm, gia nhân trong phòng xuống nhà dưới để bà hỏi chuyện
riêng ông lão. Khi ai nấy không còn trong phòng, Chúa Tiên mới khẽ hỏi ông lão
danh tánh, quê quán nghề nghiệp? Ông nhất nhất trả lời, Bà Chúa không cầm được
nước mắt ôm cha nức nở khó. Xiết bao mừng tủi, ông lão nghẹn ngào trách con bấy
lâu giàu sang chẳng đoái hoài đến cha già, quê quán. Chúa Tiên nhận tội bất hiếu,
trình bày không phải vì quên làng nước gia đình, mà do gặp lắm éo le, nghịch cảnh
không cho nàng giữ tròn hiếu đạo: Khi bỏ nhà ra đi, gặp được vợ chồng công sứ
dung dưỡng nuông chiều, lắm lúc nhớ cha, anh chị, nhưng đâu dễ mỗi chốc được về
thăm. Vả lại hình ảnh cha nghiêm dữ đòn càng khiến nàng thêm e ngại. Đến khi bị
bố nuôi khác máu tanh lòng làm điều ô nhục, nàng còn thấy phải xa cha hơn nữa
vì lẽ không thể trở lại thôn làng trong cái vỏ nửa tây nửa ta chẳng giống ai
trong làng. Nàng đành nhắm mắt đưa chân. Hà Nội như ánh đèn thu hút cánh thiêu
thân, nàng bị cuộc sống lôi cuốn lên chốn phồn hoa cố đô. Thân gái bơ vơ giữa cảnh
xô bồ đô hội, nàng phải từng phút vận dụng xảo năng để tranh sống, thăng hoa,
nên không còn đầu óc nghĩ đến chuyện nào khác ngoài thực tại thử thời.
Chúa Tiên thú thật với cha là từ ngày tới
cố đô 36 phố phường nàng không hề được ngủ trước nửa đêm, bận rộn tối ngày suốt
20 năm ròng rã. Lắm lúc muốn sai thuộc hạ hoặc đích thân về làng thăm cha,
nhưng ý định chỉ thoáng qua rồi lại bỏ đó vì quá đa đoan công chuyện. Thấm
thoát, ngày qua tháng lại đã gần 30 năm, nay cha con trùng phùng xum hợp. Nghe
con nói xong ông lão gục gặc, tấm tắc khen với Chúa Tiên:
-Chịu Thầy bói Chợ Đường Cái đoán giỏi!
Ông Lợn quyết đoán phải 20 năm xa cách cha con mới đoàn tụ. Tính đến hôm nay vừa
tròn 27 năm II tháng. Bữa nào, cha con mình phải đến thưởng ông Thầy!
Liền đó, Chúa Tiên cho gọi toàn thể gia
nhân, tôi tớ lên đứng đằng trước mặt, ra lệnh những ai đã có thái độ vô lễ, tàn
nhẫn với cha già phải quì xuống tạ tội lễ sống 2 lạy còn người khác thì 2 vái
sau khi tuyên bố cho biết đó là cha đẻ xa cách 28 năm mới gặp lại. Bà thuật cho
nghe trường hợp Bà nhỏ 12, 13 đã phải lìa xa gia cảnh. Định mệnh đã an bài sự
kiện tương phản giữa việc thoát ly và đoàn tụ của Chúa Tiên: Xưa thì con đánh vỡ
bỏ cha nay thì “cha làm bể ang cha mới gặp con”
Cuộc đời Chúa Tiên trên báo Pháp
Giữa bầu không khí hoan hỉ bỗng có tiếng
chuông reo ngoài cửa. Viên quản gia chạy ra, trở vào cho biết quan tây Chủ báo
Phố Hàng Trống đến. Một thoáng do dự Chúa Tiên ra hiệu cho vô…Thấy ông lão quê
mùa lạ hoắc ngồi bên Chúa Tiên, Chủ báo Henri de Massias hôn tay nàng vừa ngó
ông lão. Hiểu ý, Chúa Tiên giới thiệu cha với người tình lớn rồi vui miệng kể
giai thoại vừa xảy ra. MASSIAS, lúc đó đang sưu tập các dữ kiện để viết về cuộc
đời li kì CHÚA TIÊN đăng “phơi-tông” trên báo AVENIR DU TONKIN dưới nhan đề
:" La vie merveilleuse de Betty la Tonkinoise". Độc giả HN, cả ta lẫn
tây, đều hiểu BETTY là tên ĂNGLÊ đặt cho cô BÉ TÝ HÀNG BẠC. Trên nhật báo
“Annam Nouveau” của Nguyễn Văn Vĩnh, nhân sĩ chủ trương thuyết trực tri ngày
đó, có bài châm biếm Chủ báo Avenir là mỏ rao hàng (crieur public) cho Chúa
Tiên để được Chúa cho tha hồ “ra vào động Chúa”. Cũng trên báo này, binh bút Trần
Văn Tùng còn ví De Massias là họ Mã của Tú Bà đang muốn đánh cả cụm “rinh”
Aline (tức Cô Liên, con nuôi lai đẹp, tay hòm chìa khóa Chúa Tiên). Trong các
nhân tình cô bé Tý, không ai biiết rõ, viết nhiều về cuộc đời cô bằng De
Massias. Có lẽ do đó, nàng cưng nhất chàng DON JUAN đĩ điếm này. Massias cũng
như hầu hết các nhân tình mết CHÚA TIÊN không phải chỉ vì nàng đa tình, da thịt
thơm tho hấp dẫn mà còn vì nàng thông minh và linh mẫn như hồ li, khiến chồng
và tình nhân nhiều phen lúng túng, bối rối trước những câu hỏi hóc búa của nàng
mặc dù họ học cao, còn nàng gần như thất học. Về điểm thông minh và linh mẫn
này, DE MASSSIAS – tức Quan Năm Douguet, nhân tình Betty trong truyện “Đời ly kỳ
của Betty - Cô gái Bắc” có kể về nàng như sau:
BETTY là cô gái nhà quê, được ba má nuôi
là vợ chồng công sứ HƯNG YÊN cho học tiếng PHÁP truyền khẩu, thực hành ngay
trong gia đình nên 5,6 năm sau đã nói thông PHÁP NGỮ. Cái giá trị ăn khách của
BETTY ở chổ đó. Các quan thầy coi nàng như con chim lạ miền Bắc vì hồi đó hiếm
có gái AN NAM nào thạo tiếng Bắc như nàng. Phải nói là họ bị BETTY chinh phục
hơn là họ chinh phục BETTY. Không những này trẻ đẹp, sạch, thơm hơn người nữ
Âu, nàng còn khéo o bế, chiều chuộng nên không người tình nào thất vọng vì
nàng.
Tuy nhiên, BETTY cũng rất khó tánh, cái
khó tánh tạo ra cái oai của nàng như oai của Josephine với Nã Phá Luân khiến
đàn ông quý nể. Lắm người có cảm tưởng Betty là mụ phù thủy hay nhà linh thị. Một
lần, sau tiệc sinh nhật vợ bạn thân, tôi trở về nhà Betty. Hôn tôi xong, nàng
nheo mắt, trỏ vào mặt tôi nói rằng tôi vừa đi ăn tiệc về và ăn hơi nhiều. Tôi
ngạc nhiên hỏi sao biết? Nàng đáp tôi ăn đồ nguội và bánh thịt (sand wiches)
nhiều hơn bánh ngọt. Tôi sửng sốt tròn mắt trước câu nói trúng phóc của Betty.
Hỏi làm cách nào biết rõ vậy? Nàng tủm tỉm trả lời là có mắt thần thấy rõ mọi vật
ở xa. Lại một lần đến, chơi nhà d’Apremont – tức de Monpezat – nằm chuyện gẫu,
tôi có hút 5 điếu á phiện. Vì là thuốc thượng hảo hạng Besesnares rất thơm, tôi
đã cẩn thận xúc miệng rất kỹ, tợp ly nhỏ Cointreau và ngậm điếu xì gà trước khi
chia tay, đến nhà Betty. Tới nơi, tôi hôn nàng. Người đẹp bỗng nheo mặt, ngó
tôi không chớp. Làm bộ không lưu ý, tôi bồng nàng, đặt xuống divan… Betty đẩy
tôi ra: Không! Anh sắp làm tôi mệt. Để mai, bữa nay tôi không khỏe! Tôi chưng hửng
trước phản ứng bất ngờ này. Nàng nói tiếp: Đi hút về mà hành xác người ta! Tôi
vội chối và giơ tay thề. Betty nhếch cười: Anh quên tôi có mắt thần sao? Tôi
đâu tin lời thề anh bằng tin râu tóc anh? Câu trả lời khó hiểu làm tôi thắc mắc,
hỏi lại nàng làm thinh. Tôi đến d’Apremont, kể hắn nghe chuyện này. Anh bạn chủ
ngựa cười: “Con nhỏ già dặn kinh nghiệm, đánh hơi tài lắm” Rồi hắn giải thích
là Betty thính mũi, ngửi thấy khói thơm dặt mùi á phiện còn phảng phất quyến
vào râu tóc mà biết, chứ không phải có mắt thần, linh thị gì. Xúc miệng uống rượu
hút xì gà chưa đủ, phải rửa mặt gội đầu xà bông mới đánh bay được mùi thuốc. Hồi
làm Quân Trấn Trưởng sống độc thân ở Hà Nội, tôi (Lời: Quan Năm Douguet tức
Massias) có hẹn Betty mỗi tuần đến Quân Trấn một lần nếu quá 17 giờ thứ bẩy
không thấy tôi tới nàng.
Rồi một thứ Bẩy, đang ngủ trưa, có một bạn
gái thân, chồng làm Phó Công sứ một tỉnh duyên hải, lần đầu lên thăm tôi tại
Quân Trấn. Trong tình cũ nghĩa xưa, nàng vui với tôi suốt buổi trưa đến gần 16
giờ mới chia tay. Hơn giờ sau, Betty đến, vào cổng bên hông lúc tôi vừa xuống
văn phòng sau khi đã cẩn thận sai lính làm lại buồn, xóa hết dấu vết cuộc hợp
hoan vừa qua. Một mình trong buồng, Betty để mắt quan sát, hít hà các gối đệm rồi
bấm chuông… Tôi vừa lên đến cửa, nàng ôm chầm lấy hôn rồi phanh áo tôi, đưa mũi
đánh hơi, trên da mặt vai, ngực tôi một lúc, vùng văng xô tôi ra, giật cây dù để
trên bàn, bước mau ra cửa. Tôi cản giữ lại, nàng gỡ tay tôi, nói:
-Anh quên là tôi không muốn làm người thứ
2 trong cùng một ngày của anh? Khỏi hỏi ai, tôi cũng thừa biết anh vừa có một
đàn bà trong vòng tay.
Dứt lời, nàng dời phòng, hẹn hôm sau tới.
Thái độ khó tánh, cửa quyền này (fierté des manieres) tuy không đẹp, nhưng các
nhân tình vẫn khoái BETTY, có lẽ vì họ thấy ít có me tây AN NAM nào giống nàng
và do đó rất quí nể, không dám coi thường nàng như các me khác. Riêng tôi còn
khoái Betty ở chỗ nàng hay nêu lên những vấn nạn từng khiến nhiều người – trong
số có tôi – từng bí khó trả lời. Tôi có tật đêm mưa, bằng mọi cách, phải tìm đến
với nàng. Vài ba lần như vậy, nàng thấy bị làm phiền nhiễu vì tăm tối mưa gió,
đầu ráo áo ướt, cửa mở đóng làm rộn lối xóm nên một đêm, nàng biểu tôi sẽ không
tiếp lần sau, nếu không giải thích tại sao lại khoái đến với nàng đêm mưa? Lúng
túng, tôi đành trả lời khoái đêm mưa tìm đến, chứ không hiểu tại sao? Betty vặn
hỏi sao lại khoái như vậy? Bất cứ hành động nào cũng có lý do như muốn ăn uống
là vì đói, khát. Việc mò mẫm đêm mưa sấm chớp ầm ầm không thể không có những lý
do sâu sắc ngoài động cơ sinh lý thúc đẩy? Rồi nàng cười nói tiếp không hiểu tại
sao đàn ông khoái đến với đàn bà những đêm mưa? Nàng thấy đàn ông Đông hay Tây
cùng khoái như vậy, và đã hỏi nhiều người già lẫn trẻ, hầu hết là các quan Tây
đều không giải tỏa nổi thắc mắc của nàng. Do đó, Betty đã quyết định từ nay
không tiếp ban đêm mưa chừng nào chưa được giải thích rõ về điểm này.
Một người tình cũ của Betty trước tôi là
Đại tá M, có thuật lại câu chuyện về bộ tóc dài dậm cảu Betty. M mỗi lần nằm
bên nàng đều yêu cầu nàng bọc hay quấn tóc, đừng bỏ xóa vì anh ta có tật ngủ
say tay quờ quạng, hễ vướng vít phải tóc dài là thức tỉnh lập tức. Betty không
chịu, viện lẽ, nếu quấn lại không ngủ được như bị ai nắm đầu. Vậy chỉ có cách
hai người ngủ riêng là tốt. Nhưng M không muốn vậy. Sau nhiều lần yêu cầu nàng
chịu nhượng bộ với điều kiện M giải thích cho nàng hiểu công dụng của tóc trên
đầu cùng những lông khác như ở nách? Tại sao nách có lông dài? Tại sao nhỏ
không có, lớn mới mọc? Để làm gì?
Tất nhiên, cũng như tôi M chịu thua
không trả lời được câu nào.
KHHB số 74C2
Read more:
http://tuvilyso.org/forum/topic/23822-48-co-be-ty-hang-bac-khhb-so-74c2-va-74d1/#ixzz3g2GNB2vd
==============
Siêu tài liệu: Hạn địa kiếp của cô Bé Tý
Hàng Bạc
Linh Xuyên
Thầy kế Khâm Thiên đoán cô Bé Tý đáo hạn
Địa Kiếp (năm Ât mùi 1955) phải khánh tận như Thạch Sùng – Để cứu vãn, thầy bói
khuyên cô làm gì? Sao cô không tin? Cô bị hết của, ly kỳ trong nửa ngày như thế
nào? Ai tay không đến đoạt hết kho tàng báu vật vô giá của Cô?...
Cô Bé Tý coi quẻ thầy Kế
Sau khi đến chợ đường Cái thưởng tạ thầy
bói Lợn, được ông này báo động về hạn năm Mùi rất nặng, cha con cô Bé trở về HN
kém vui. 8 năm sau, ông lão qua đời, được con gái ma chay linh đình, đưa linh cửu
về quê mai táng. Năm 1942, nhân đi trẩy hội Mẫu PHỦ GIẦY qua Nam Định, CHÚA
TIÊN nhớ lời đoán của ông Lợn, có ghé coi thầy Kế , lúc đó ngồi ở phố HÀNG
SONG. Không muốn ra mặt, nàng nhờ bà Bóng đi theo cầm quẻ và biên ngày tháng ra
mảnh giấy, để khi hỏi bà này nói thay. Thầy bói gieo quẻ xong, hỏi ngày giờ
sinh, rồi bấm tay nói ngay: " Số này giống y cô BÉ TÝ HÀNG BẠC".
Chúa Tiên cười, lên tiếng chào. Ông Kế
dõng dạc nói : "Hơn năm trước, ngày tôi mới từ KHÂM THIÊN về Ngã Sáu ( ỏn
rợp), bà có đến coi vụ ông Năm Đồng đăng bị Nhật bắt, tôi đã quyết đoán bà về tới
HN thì ông ta cũng được tha, việc đó có đúng không?"
CHÚA TIÊN gật đầu: "Chịu thầy! Tôi
về đến nơi buổi trưa thì chiều, ông ta đến.Còn quẻ bói hôm nay ra sao?"
Ông Kế đáp: "Quẻ hôm nay không ứng,
chẳng động hào nào, tôi mới hỏi ngày giờ sinh bấm đoán theo tử vi. Như lần trước,
tôi đã nói bà từ nay đến năm Ngọ tới (1954) , tức còn tròn 1 giáp, số vẫn hạnh
cát, không có chuyện gì nhưng đến năm Mùi (1955) , hạn phùng địa kiếp, phải lo
phòng kẻo vong gia như THẠCH SÙNG thuở trước.
Lời thầy Kế làm chúa tiên hơi biến sắc
nói: "Thầy bói Lợn cũng đoán vậy, khuyên tôi làm phúc vì đức năng thắng số,
kiêng sát sanh và ăn chay niệm Phật thì cũng đỡ hoặc có thể qua khỏi. Như vậy
có thể đúng không? Thầy có phép gì giúp tôi qua hạn này không?"
Ông Kế đáp: "Bà nên làm như ông Lợn
đã dạy nhưng tôi còn khuyên bà đầu năm Ngọ (1954) nên dọn nhà đi nơi khác ít nhất
1 năm đến đầu năm Thân (1956) hãy quay trở về nhà cũ. Tốt hơn là nên bán ngôi
dương cơ đó hoặc cho người ta thuê, nếu không hạn này khó qua"
Chúa tiên hỏi dọn đi đâu, thầy bói
khuyên nên dọn xa Hà Nội, càng xa về phương Nam càng tốt, càng kín nhẹm việc
chuyển cư không để ai biết tung tích, đia chỉ càng tốt. Nếu ở lại ngôi nhà hiện
hữu, chắc chắn không qua khỏi đại hạn xấu này.
Nghe nói tuy lòng lo ngại, nhưng Chúa
tiên Hàng Bạc vẫn tin có Mẫu che chở, số mình không đến nỗi. Sau khi nàng đi khỏi,
thầy Kế nói ngay với khách xem ở đó là cô BÉ TÝ sẽ không làm theo lời ông dạy
vì số cô sẽ tán gia năm Mùi, may lắm còn cái xác nhà và chút ít của chìm.
Ra khỏi chỗ coi bói, Chúa tiên có vẻ băn
khoăn, hoang mang nhưng về tới nhà nàng lại chủ quan như 10 năm trước cùng cha
đi coi thầy bói Lợn về. Tin có vua Mẫu, chư vị Quan Lớn, quan Hoàng hộ
trì...nàng càng mê đồng bóng.. Từ Đồng Cuông, Tuần Quán, Hội Lộ, Đền Tranh đến
Phủ Giầy, Sòng Sơn, Phố Cát, không đền to phủ lớn, hội hè nào nàng không tới
hành hương chiêm bái. Nàng cũng tin người Nhật, người Pháp sẽ không chiếm đoạc
tài sản của nàng, do đó nàng chẳng phải thay đổi chổ ở. Việc di chuyển đồ đạc,
nhất là hàng ngàn báu vật, cổ khí lớn nhỏ dễ bể là điều khó khăn, nan giải. Hơn
nữa, cả 1 điện thờ nguy nga khiêng dọn đi đâu? Nàng vẫn tin là pho tượng Mẫu bằng
vàng rất linh thờ trong động sẽ hóa giải các vận hạn đến với nàng. Thế là Chúa
tiên coi như "pha", không quan tâm đến lời khuyến cáo lúc đó của hai
thầy bói nổi danh BẮC HÀ. Mãi cho đến 12 năm sau…
Mưu chiếm của quý của cô Bé Tý
Hai cán bộ, nón bọc nylon, đeo sà cột
theo viên Trưởng Phố Hàng Bạc, đến bấm chuông nhà cô Bé Tý, người quản gia cháu
cô ra mở cửa mời vào, Viên Trưởng Phố giới thiệu 2 gã cũng xuất trình chứng
minh thư là Đại diện Tòa Thị Chính đến thăm viếng chào mừng đồng bào sau ngày
Chính phủ về tiếp quản thủ đô.Vừa uống trà hút thuốc, 2 cán bộ vừa đưa mắt quan
sát kỹ các đồ vật trang hoàng trong phòng khách.Một gã “giáo đầu” hỏi về chủ
nhân và tình hình sinh hoạt . Rồi gã thứ hai mở màn tán dương thành tích kháng
Pháp và sự nghiệp cứu quốc của Chính phủ .Y kể công 8 năm hy sinh gian khổ đã
đưa đến kết quả là nay Chính phủ về suôi tiếp thu nửa phần đất nước điêu tàn vì
chiến tranh, trống trơn vì thực dân bóc lột , vơ vét. Chẳng những họ nhặt nhạnh
những gì có thể đem được, mà còn hủy diệt những gì họ không thể đem theo như bất
động sản, các di tích lịch sử nhằm gây khó khăn cho Chính phủ hao tiền hao của
tốn công tái thiết. Gã lớn tuổi phụ họa : cụ thể như Chùa Một Cột , thực dân biết
không thể đem theo đã phá hoại ngôi chùa bằng mìn, còn phao tin Chính phủ ta chỉ
huy (Thực ra vụ này do VM gây ra để Chính Phủ Quốc Gia hồi đó, không thể tháo gỡ
, chuyển vào Nam ngôi chùa độc nhất vô nhị Đông Dương này, rồi lấp liếm tố ngược
Quốc Gia và Pháp cấu kết chủ động).Gã cán bộ lại tiếp : Chưa hết , nhiều bảo vật
của 2 bảo tàng viện Đấu Xảo (Mussé Maurice Long) và sau nhà hát lớn (Mussé L,
Finot) cũng bị họ lấy đến 80-90% đem vào Saigon và Đà Nẵng. Còn bao nhiêu vật
liệu máy móc , công cụ cơ xưởng , xí nghiệp cũng bị họ tẩu tán vào Nam hết .
Bây giờ Chính phủ ta và nhân dân phải lo hàn gắn và xây dựng lại từ con số
không . Mọi công dân phải tích cực tham gia vào công cuộc tái tạo phục hồi
chung , không ai được trốn tránh nghĩa vụ trọng đại này.
Viên quản gia hỏi việc đóng góp của người
dân như thế nào ?
Gã kia trả lời : Đại khái nông dân có thể
đóng góp tiền bạc , thóc lúa, công sức canh tác , khai phá gia tăng diện tích
.Thợ thuyền thi đua lao động sản xuất . Các thương gia ủng hộ tiền của , không
trốn thuế chính phủ , mở mang doanh thác . Như gia chủ đây nhà giàu có nhiều bất
động sản có thể cho nhà nước mượn không để làm cơ xưởng , công sở , kho tàng
v.v.hoặc quyên tặng của cải , ủng hộ các đồ quý giá như năm xưa sau Cách mạng
tháng 8 /1945 nhân dân đã hưởng ứng “Tuần lễ vàng” .
Viên quản gia lại thắc mắc hỏi : Các cổ
vật quyên tặng như vậy Chính phủ sẽ bầy bán tại cửa hàng mậu dịch lấy tiền xung
quỷ hay đem trang trí các cơ quan Trung ương hoặc trang hoàng tư dinh, tư thất
nhân viên cao cấp nhà nước ?
Gã cán bộ trẻ cho hay : Chính phủ không
đem bán cũng không đem bầy biện trần thiết đâu cả , các cổ vật sẽ đem trưng bày
trong các bảo tàng viện, điền vào những chỗ đã bị Pháp lấy đi . Chính phủ sẽ biết
ơn và ban khen những vị sở hữu chủ hảo tâm này , vì họ đem vinh dự đến cho
chính phủ và nhân dân khi các phái đoàn quốc tế tới tham quan .
Kế đó 2 cán bộ yêu cầu được dẫn đi coi
các nơi trong động Chúa Tiên .Viên quản gia hướng dẫn 3 người từ tầng trệt lên
đến các lầu , xuống cả sân nuôi cầm thú lạ , 2 cán bộ tròn mắt ngắm coi, không
ngớt gục gặt đầu khen ngợi khiến cho vị quản gia cảm thấy lo ngại . Sau đó chừng
1 tuần bọn này trở lại động Hàng Bạc . Viên quản gia xuất hiện nhưng không mở cửa
như lần trước , mà ở trong nói vọng ra : Bà chủ trẫy hội chưa về . Bộ 3 gật đầu
không nói 1 lời rồi chào đi thẳng.
Sau đó 1 tháng chúng lại đến lần thứ 3 .Thấy
nét mặt chúng nặng chịch , viên quản gia đon đả mở cửa mời vào nhưng cho biết
bà chủ vẫn chưa về . Bọn này tần ngần ngó nhau ra vẻ hoài nghi, quản gia nài nỉ
mời họ vào khám xét để kiểm chứng sự thực. Nhưng bộ ba chỉ cười nửa miệng , lắc
đầu không nói 1 lời phiền trách. Cuối cùng gã cán bộ già hỏi sao vắng nhà lâu
như vậy ? Quản gia cho hay : Bà thường đi hát đền này phủ nọ liên miên có khi cả
nửa năm mới về . Ở nhà độ vài tuần 1 tháng lại có bạn đồng quan khác đến rủ đi
nữa. Lại hỏi : Bà chủ cứ sống đồng bóng lang bang suốt năm thế sao? Quản gia
đáp: Chủ tôi đã già, nhờ ơn Vua Mẫu độ đủ bát ăn , ở nhà có con cháu tin cậy
trông nom nên yên tâm đi lễ bái quanh năm. Hai gã cán bộ ngó nhau gục gặt rồi
chào cáo lui . Hí hững kế hoãn binh này đắc cách , quản gia sau đó lên lầu Điện
thuật lại cuộc tiếp xúc vừa xong cho Chúa Tiên nghe và tin chắc là : tụi chúng
đã tới 3 lần không đạt kết quả sẽ chẳng tới nữa. Mà cho dù có tới, lại dỡ mửng
cũ cù cưa , nói quanh riết cũng huề.
Nhưng rồi sau 2 tháng, bẵng đi không thấy
chúng trở lại , cả nhà cũng quên bẵng không nghĩ đến chuyện này. Bỗng 1 hôm , tụi
cán bộ trở lại với 5, 6 bộ đội nai nịt đồ trận, đi chiếc xe 10 bánh bít bùng đỗ
xịch trước cửa. Trên xa nhảy xuống 2 gã cán bộ hôm trước , theo sau là 1 cán bộ
mới , không phải là viên Trưởng phố như 3 lần trước, tiến đến cỗng bấm chuông. Trong nhà xôn xao , nhốn nháo , viên quản gia lật đật chạy ra mở cửa. Gã cán
bộ già chào , yêu cầu muốn gặp mặt bà chủ có việc gấp, và họ nói rằng bà chủ
đang có nhà nhà không đi vắng.Viên quản gia hơi thất sắc nhưng kịp trấn tỉnh,
trả lời rằng bà chủ thực sự chưa về và cam đoan nếu anh em lục khám thấy xin chịu
tội bắn chết ngay .
Gã cán bộ gật đầu cười lạt , trấn an là
Bà Chúa chưa về cũng không sao. Rồi trỏ tay vào viên cán bộ mới, vai choàng sà
cột lớn, giới thiệu là Phó Vụ trưởng Vụ Lễ Tân Chủ tịch Phủ, đại diện bộ Nội Vụ
muốn được gặp bà Chủ hoặc viên quản gia giây lát. Dứt lời , gã mở sà cột lấy tờ
văn thư trao cho quản gia , nói đó là văn thư Bộ Nội Vụ gửi Bà Bé Tý Hàng Bạc.
Nội dung văn thư đại ý Bộ Nội vụ trân trọng
yêu cầu bà chủ cho Chính phủ mượn 1 số báu vật gồm các loại đồ sứ cổ, đồ đồng
, đồ ngọc v.v.trong thời gian 3 ngày để trưng bày tại Bảo tàng Viện Thành phố,
nhân cuộc viếng thăm hữu nghị 2 phái đoàn khảo cổ Liên Xô và Trung quốc tới vào
ngày mốt . Các bảo vật vô giá của Bà sẽ đem vinh dự về cho tổ quốc và cho nhân
dân Việt nam. Nhân viên Bộ sẽ làm giấy biên nhận những đồ vật do bà vui lòng cho
mượn .
Coi xong văn thư quản gia nói là bà chủ
không có nhà nên không có quyền quyết định vụ này.
Nhưng VM có cách thật lẹ để chiếm đoạt
Gã cán bộ lớn tuổi lập tức nghiêm mặt
nói ngay: đây là lệnh cấp bách của bộ Nội vụ cho chúng tôi phải bằng mọi giá
mượn kỳ được các bảo vật vì chiều mai 2 phái bộ bạn đã tới, và sang ngày mốt sẽ
chính thức tham quan các bảo tàng viện và di tích lịch sử thủ đô. Như vậy không
có vấn đề trì hoãn và ông quản lý phải quyết định thay cho bà chủ.Vả lại Bộ Nội
vụ, Chính phủ đứng lên mượn có văn thư giấy tờ làm bằng và cán bộ nhân viên
chúng tôi đại diện biên nhận ấn ký bảo đảm thì còn e ngại gì ? Gã cán bộ thứ
hai tiếp lời lên án thực dân đã đoạt ngang nhiều cổ vật quý giá , nên Chính phủ
không thể để bảo tàng trống trơn , lèo tèo vài ba cái không đáng giá khiến ngoại
quốc chê cười , nước ta có trên 4000 năm lịch sử mà nghèo nàn về lĩnh vực khảo
cổ .
Trước áp lực của cán bộ , viên quản gia
nhất định không nhượng bộ .Thấy tình thế khó giàn xếp êm, 3 cán bộ ra ngoài
sân bàn với nhau . Lát sau trở vào gã cán bộ già dõng dạc nói vì tình hình gấp
rút, chúng tôi phải giải quyết 1 trong 2 cách để ông quản gia chọn : một là
ông phải thay bà chủ cho Chính phủ mượn số cổ vật yêu cầu trong thư Bộ Nội Vụ
mà chúng tôi là đại diện nhân danh bộ sẽ làm giấy biên nhận và ghi rõ và đánh số
các đồ vật để vi bằng. Hai là theo lời ông vừa thề và cam đoan mới đây là
chúng tôi sẽ bắt đầu khám xét nhà , nếu thấy bà chủ trong nhà thì chúng tôi sẽ
“xử trí” ông lập tức, và kế đó là chúng tôi cứ tự tiện khêng ra xe những đồ vật
đã ghi trong tờ biên bản để lại .
Viên quản gia bấn người không biết tính
sao? Nếu chịu giải pháp 1 thì quản gia làm sao có quyền cho mượn? Nếu cho mượn
ẩu không có lệnh chủ , lỡ mất mát hay gẫy bể thì ai chịu trách nhiệm ? Mà vô
trong xin lệnh Chúa thì lòi tẩy chuyện mình đã nói xạo mấy lần qua ...Còn giải
pháp 2 thì tê bại , nguy hiểm hơn...
Chúa Tiên ở trên lầu điện, chúng khám
phá thấy sẽ rất phiền , dám giết quản gia, đồng thời tha hồ sang đoạt các bảo vật
. Sau vài phút suy tính, cuối cùng quản gia đành phải cho mượn các bảo vật theo
yêu cầu của Bộ Nội Vụ, song đòi có sự chứng kiến , kiểm thị của trưởng khu phố
Hàng Bạc ký vào biên bản hợp thức . Bọn cán bộ chịu liền nhưng khi đến kiếm thì
ông Trưởng Khu Phố không ở nhà. Người vợ cho hay chồng vừa về quê thăm mẹ già
đau nặng chừng vài ngày mới lên. Thấy quản gia có vẻ muốn làm ngặt , gã cán bộ
đanh nét mặt lý luận:
-Trưởng Khu phố làm sao bằng đại diện
Chính Phủ Trung Ương ? Giữa cán bộ Nội Vụ là chúng tôi với viên Trưởng Phố bên
nào quan trọng ? Ông cẩn thận lẩn cẩm quá ! Chúng tôi là cán bộ nhà nước mà
không được ông tin cậy bằng 1 viên chức khu phố hay sao?
Gã đeo sà cột xua tay:
-Thôi . Không cần hỏi ông ta . Mấy anh bộ
đội và bọn ta vào lục soát kiếm bà chủ thế nào bà cũng sẽ chịu cho Chính phủ mượn
.
Dứt lời gã vẫy tay kêu mấy lính VM đứng
ngoài cửa, khiến cho quản lý biến sắc xua tay không cho lính vào và trách :
-Các anh bộ đội cướp phá nhà dân hả ?
Nhà chật, đồ đạt như rừng mà súng ống nghênh ngang , dù chẳng phá thì cũng như
phá .
Gã cán bộ già trách lại :
-Tại ông ngoan cố, bất chấp lệnh của
Chính phủ, coi ba cái đồ cổ nát còn hơn danh diện, uy tín Chính phủ trước mắt
các phái đoàn ngoại quốc.
Gã thứ hai nói tiếp :
-Ông này phải đưa đi cải tạo, gột rửa đầu
óc tư hữu, cá nhân chủ nghĩa mới có thể thành công dân tốt của chế độ ta. Vì
tôn trọng quyền dân, chính phủ cử cán bộ đến điều đình mượn đàng hoàng , có giấy
tờđảm bảo hẳn hoi. Chẳng bù giặc Pháp trước kia muốn cướp của ai thì cướp, chẳng
hỏi han điều đình chi hết , ai mà hó hé chúng bỏ tù rục xương .
Sẵn đang bực tức, quản gia mượn dịp sửa
lưng :
-Anh nói sai .Hồi Pháp thuộc anh còn nhỏ
biết đâu chuyện đó . Chỉ nghe bọn ghét Tây thổi phồng , xuyên tạc , chứ Pháp nó
đàng hoàng , không như các anh nhiễu dân mượn gì , đòi gì là đòi cho kỳ được bất
kể dân có ưng hay không ? Cái gì các anh cũng nêu Chính phủ , nhà nước , nhân
dân làm bung xung để bịt miệng , đóng hàm dân ..Nhân dân là ai ? Là các anh ,
là chúng tôi , là đồng bào , là tất cả 35 triệu dân Việt , nhưng nhân dân cũng
chẳng là ai hết .Thôi .Nói lắm cũng chẳng ích gì, các anh muốn mượn những gì ,
hãy làm biên nhận để ký cho xong .
Không đợi quản gia lập lại câu nói , gã
cán bộ trẻ thảo tờ biên bản , trong khi gã lớn tuổi và gã thứ 3 (cán bộ Tàu cộng
về về Văn hóa Nghệ thuật) đi chọn lựa các đồ muốn mượn “nhè” toàn những thứ quý
đẹp đủ cỡ , đánh số thứ tự , ghi biên bản rồi , chuyển ra xe , mãi đến chiều chở
4 xe mới hết . Trong Động Chúa Tiên 10 phần còn lại 2 , đồ đạc chỏng trơ loáng
thoáng. Khi chiếc xe chót sắp chuyển bánh, viên quản lý rầu rĩ nói với 3 cán bộ:
-Theo điều ghi trên biên bản , chính phủ
có cam đoan chịu trách nhiệm về việc sức mẻ, rạn bể , thất thoát số cổ vật đã
trao cho các anh .Và trong 3 ngày sẽ hoàn trả chúng tôi nguyên vẹn , đủ số. Xin
lưu ý các anh điểm đó.
Gã cán bộ già gật đầu cười , bắt tay quản
gia vỗ về :
-Yên chí lớn đi ông anh .Đại diện Chính
phủ chúng tôi đã cam đoan trên giấy mực tôn trọng các điều kết ước với gia chủ
và quản gia . Sau 3 ngày các bảo vật này sẽ được hoàn trả đầy đủ và không sức mẻ
.
Vụ giựt đồ ly kỳ làm sạt nghiệp Chúa
Tiên
Ba hôm sau không thấy tụi cán bộ trở lại
...rồi 10, 15 ngày vẫn biệt tăm. Nóng lòng, Bà Chúa hối thúc quản gia tìm đến hỏi
Bộ Nội vụ. Tới nơi, đi hết phòng này đến buồng kia xuất trình tờ biên nhận để
đòi; nhưng không ai biết xuất xứ ở đâu vì nó không phải do Bộ Nội Vụ làm, ấn dấu
và chữ ký, tên tuổi đều giả cả. Quản gia loanh quanh suốt buổi, có ý nhận mặt
tìm 3 cán bộ bữa nọ song chẳng thấy. Về tâu với Chúa, Bà tất tưởi đến yết kiến
Phó Thị trưởng, bạn đốc tờ già Trần Văn Lai. Viên này đích thân tới Bộ Nội vụ hỏi
giùm, cũng không biết hơn. Kế đó, đốc tờ “phá tượng Tây sau ngày Nhật đảo
chánh” lại tới Trường Viễn Đông Bác Cổ hỏi vì Bảo tàng viện Finot và Maurice
Long thuộc sở quyền trường này, nhưng ở đây cũng chẳng giúp được gì vì không hề
cử ai đi mượn đồ của tư nhân Đốc Lai đến tận động Chúa Tiên (bà lúc đó đã 66)
cho biết cuộc vận động không đưa đến kết quả tại hai nơi trên và mách nước cho
cô bạn già đi cớ Công An Trung Ương và Quận Nhất. Hai hôm sau Phòng Tư Pháp Quận
Hàng Trống cho gọi Trưởng Khu Phố Hàng Bạc tới thẩm vấn. Viên này khai 2 tháng
trước, một hôm, có 2 cán bộ đến văn phòng xuất trình giấy tờ, chứng minh thư với
sự vụ lệnh Bộ Nội Vụ cử họ đến tham quan đến các đồ cổ ngoạn nhà Cô Bé Tý Hàng
Bạc. Rồi, cả hai yêu cầu ông dẫn tới giới thiệu gia chủ. Tất cả chỉ có thể và
chỉ có 1 lần, sau đó không hề gặp họ lần thứ 2. Công An Quận Nhất cũng đến Trường
Bác Cổ yêu cầu cung cấp dữ kiện, nếu có để truy lùng gian phi. Để tỏ thiện chí,
Ban Giám đốc xuất trình sổ danh – bộ nhân viên cho Trưởng phòng Tư pháp quận 1
coi. Liền đó Trưởng lại tập hợp nhân viên để viên quản gia điểm mục nhận diện.
Nhưng vô ích, quản gian đâu có ở đó mà tìm? Bà Chúa uất hận ra về, bỏ tiền mướn
người dò la và kín đáo nhờ các tay hàng sách buôn bán đồ cổ, kể cả em rể
Passignat, chủ tiệm La Perle ai phát giác manh mối giúp Bà lấy lại số trên 300
cổ khí bị lừa, sẽ được thưởng 2000đ (bằng nửa số độc đắc nay). Nhưng, bẵng đi 2
năm, trong khi cả nhà Chúa Tiên cơ hồ quên vụ này thì một chủ tiệm đồ cổ, tên Cửu
Ninh, em bên ngoại Chúa, đến báo cho biết một số cổ vật hiện được cất dấu dưới
hầm Bảo tàng viện Finot, lão chủ tiệm quả quyết là sau khi có bạn đứng đắn cho
tin, lão đích thân đã tới điều đình qua sự giới thiệu của người bạn với viên
gác đan, biếu 5đ (bằng 10.000đ nay) yêu cầu được đi ngắm coi chốc lát, thỏa
tính hiếu kỳ, hiếu cổ, dưới hầm viện, nơi chứa các đồ cổ quí hiếm Đông Phương
ít đem trưng bầy công chúng xem, trừ phi có phái đoàn ngoại quốc tới. Viên gác
đan thầy tiền tối mắt, nhất là không ngờ có vụ gạt đồ ly kỳ nhà Cô Bé Tý, nên
hướng dẫn lão xuống coi, thấy rõ ràng rất nhiều đồ cổ Chúa Tiên. Tin này được lập
tức báo cho Quận Nhất. Vài hôm sau, được giấy mời đến Quận, quản gia và Bà chúa
được Trưởng phòng Tư pháp hỏi qua về vụ phát giác rồi cung hai người đến thẳng
Bảo tàng viện sau Nhà hát lớn. Tới nơi, trái với lời khai quả quyết của lão quản
gia, chẳng thấy cổ vật nào của Chúa Tiên trong số những đồ bầy thưa thớt trong
4-5 quầy tủ dưới hầm Viện. Vừa tức giận vừa bẽ mặt với Trưởng phòng Tư pháp Quận
Nhất, Bà Chúa về tới nhà, cho gọi Cửu Ninh đến xỉ vả mắng nhiếc một hồi làm lão
uất ức phát bệnh, vài ngày sau qua đời. Và cũng từ đó, Chúa Tiên không được biết
mảy may tin tức, âm hao về số lớn đồ cổ bị cướp trước mặt một cách thật ly kỳ.
Bạn đọc hẳn thắc mắc không hiểu những bí ẩn trong vụ này như thế nào? Phải
chăng bọn gian phi, lưu manh đã trá hình cán bộ VM lừa gạt kho tàng báu vật Cô
Bé Tý hay đó chính là âm mưu quỷ quyệt do chính quyền VM dựng lên vụ này để
sang đoạt trắng trợn lô cổ khí của tư nhân?
Nghi vấn này mãi đến 14 năm sau mới được
phơi trần trước ánh sáng , sự thật trong trường hợp tình cờ sau đây: Trong vụ
Mậu Thân tháng 2/1968 , khi cộng quân ngày 19 bị QLVNCH đánh bật khỏi thành nội
Huế tại khu Thương Tứ , có 2 VC từ dưới hầm chui lên đầu hàng 1 đơn vị HK.Trong
2 gã này có 1 nguyên là cán bộ Văn hóa Vụ , trước đã du học tại Bắc kinh về môn
khảo cổ nhân văn . Sau y hồi hương hồi Hội Nghị Giơneo và được tuyển vào đoàn
200 cán bộ gữi về HN . Giữa tháng 8/1954 để điều nghiên chuẩn bị tiếp thu thủ
phủ miền Bắc . Sau ngày VM tiếp quản HN 9/10/1954 y được cử chức Quản Thủ Bảo
Tàng Viện cùng 1 số cố vấn Trung cộng là Khưu Mặc Viên , tức gã cán bộ lạ mặt
thứ 3 đã đến động Hàng Bạc lựa chọn các báu vật , sau khi quản gia cực chẳng đã
cho mượn.
Đụng trán ly kỳ ở miền Nam tự do với thủ
phạm giật đồ
Cuối năm 1965, hồi chánh viên này dời chức
Quản thủ, trở lại bộ đội, chờ ngày xâm nhập miền Nam. Sau 5 tháng hành trình
gian khổ đơn vị y tới Cao nguyên bổ xung binh đoàn chủ lực Kon tum . Tháng 2/68
, đêm 30 Tết Mậu Thân dự trận tấn công Huế đến 21/2 đơn vị y tan nát bị đánh bật
khỏi thành Nội cùng 2 tổ viên kẹt dưới hầm tử thủ , y chờ dịp ra hàng . Sau khi
giải về Ty Chiêu hồi Đà Nẵng, y được Phó Trưởng ty nhận ra người cùng tỉnh Hải
dương nên đối đãi nhiều thiện cảm . Hôm kết thúc khóa huấn chính cải tạo , hồi
chánh viên lấy tình thân , đến nhà riêng Phó Ty, ngỏ ý nhờ bán 1 tượng Phật bằng
vàng nặng chừng 30 lượng . Viên Phó Ty cầm coi pho tượng cao chừng 1 tấc với cặp
mắt sửng sốt rồi hỏi xuất xứ . Hồi chính viên trả lời lúng túng nói là của gia
bảo đem theo làm bùa hộ mạng . Nay vì tứ cố vô thân , dời trung tâm cần tiền
sinh sống nên buộc lòng phải bán . Phó Ty cho hay nếu không nói rõ xuất xứ thì
không thể bán giúp mà còn làm khó đương sự vì viên này biết đích thực pho tượng
không phải của y . Hồi chính viên 1 mực quả quyết là của mình . Phó Ty lật ngược
pho tượng , trỏ tay vào 2 chữ B.T. chạm dưới đáy hỏi:
-Anh lấy tượng vàng này của ai? Nếu
không nói rõ thì tôi sẽ bắt anh đưa ra nhà chức trách
Tưởng Viên Phó Ty này giở trò tháo cáy
sang đoạt , hồi chánh viên khăng khăng bảo là của gia bảo .
Cười lạt , Phó Ty vặn hỏi :
-Trong bản khai lý lịch anh khai thành
phần bần cố nông làng Phao sơn , Nam Sách , Kinh Môn . Đã bần cố nông 3 đời như
anh nói , làm sao cha ông có tượng vàng để lại cho anh ?
Vẫn cứng cỏi cấp trí, hồi chánh viên đáp
:
-Họ tôi tuy 3 đời nghèo nhưng ông cha
tôi đời nọ dặn đời kia không được bán vì tượng này rất linh đã phò hộ cho mấy đời
nhà tôi thoát tai nạn , bệnh tật . Đến đời tôi không phải là không tin , song về
với Chính phủ quốc gia , không họ hàng thân thích tại miền Nam , tôi phải sống
tìm việc làm , chẳng lẽ giữ vàng mà phải đi ăn xin , ai cho ?Đó là tất cả sự thật
, tôi không cưỡng đoạt của ai hết .
Phó Ty lắc đầu :
-Tôi không tin như vậy nếu anh không giải
thích nổi nghĩa của 2 chữ BT dưới đáy tượng . Là gia bào nhà anh thì anh phải
biết . Nếu không biết thì anh là quân gian .
Thấy đương sự có vẻ lúng túng . Phó Ty
tiếp :
-Nhưng tôi chắc anh không giải thích nổi
, vì anh không phải là chủ sở hữu đích thực .Và tôi chắc anh cũng không đủ lanh
để phịa ra nghĩa của 2 chữ BT , vì chỉ có tôi hiễu rõ nghĩa của nó .
Câu nói làm đương sự thêm lúng túng
nhưng cố trấn tỉnh đáp :
-Thú thật với ông gia bảo này là của lâu
đời , đến cha tôi lại quên không giải thích nghĩa 2 chữ , về phần tôi cũng vô
tình không hỏi , đến khi để ý đến thì cha tôi đã qua đời , chẳng biết hỏi ai ?
Phó Ty trỏ vào ngực cười :
-Hãy hỏi đây nói cho mà nghe .BT là chữ
viết tắt tên của bà cô tôi ....dân Hà Nội ai mà không biết? Bà cô tôi có nhiều
đồ quý hiếm đất Bắc Hà , hơn cả nhà Cửu Nghi , Bá Soạn . Các đồ báu vật dù là
vàng ngọc , đồ sứ , đồ đồng cổ v.v. đều khắc 2 chữ BT trong 1 khung bát giác dưới
tay . Anh còn muốn tôi nói rõ nữa không ? Anh có biết tôi là ai không ? Cha tôi
chính là viên quản gia (gọi bà BT là cô ruột) đã bị bộ ba cán bộ VM các anh lường
gạt , lấy gần hết cổ vật trong nhà . Lúc đó là đầu 1955 , đơn vị tôi đã dời HN
tháng 9 /54 vào Quảng Trị do đó chẳng hay biết gì cả . Mãi đến tháng 4 /55, em
trai tôi di cư vào Nam gặp tôi ở Huế mới cho hay đầu đuôi câu chuyện . Thật
không ngờ trái đất lại tròn : thiên bất dung gian , cho tôi đụng trán 1 trong 3
thủ phạm giật đồ bà cô tôi .
Hồi chánh viên vẫn đứng im, xa vắng như
đang suy tính cách chống chế .
Phó Ty lại tiếp :
-Cho anh hay là tôi ở Phố Hàng Bạc với
bà cô và cha tôi từ năm 10 tuổi , đi học. Măm 16 tuổi tôi học trường Chu Văn An
, mỗi năm 6 tháng 1 lần, cha con tôi lại phải lau chùi , kiểm soát các báu vật
trong nhà nên biết rõ dấu ghi BT này .
Bây giờ anh đã tin tôi chưa? Nếu chưa,
tôi sẽ đưa hình cha tôi cho anh nhận diện có phải là viên quản gia đã bị các
anh gạt gẫm không ?
Hồi chánh viên vẫn điềm tĩnh đáp :
-Đúng hay sai , tôi gian hay ngay đều chẳng
thành vấn đề . Vấn đề là giờ đây tôi đã về quy chánh Chính Phủ Quốc gia chủ
trương xóa bỏ hận thù , tội lỗi tôi nếu có trước ngày hồi chánh , dù đã giết
hàng ngàn người , cướp lừa bạc triệu , cũng kể như tôi không có tội , như đương
nhiên được bạch hóa . Hơn nữa về phía ông , chẳng có gì xác minh tượng vàng là
của bà cô . Về phần tôi cũng không có giấy tờ biện minh đó là của gia bảo thì
dù đến chỗ phải trái , tôi , 1 tân hồi chánh viên , vẫn thắng lý .Tóm tắt , đối
với Chính phủ VNCH , tôi nay được coi như không có tội gì trước ngày quy chánh
và chỉ có tội , nếu từ nay về sau tôi làm điều gì phạm pháp .
Trước lập thuận lý của đương sự , Phó Ty
nói :
-Tôi không có ý đòi lại tượng vàng của
bà cô tôi , mà tôi chỉ muốn anh kể lại sự thật về vụ này , tôi đoan hứa sẽ
không làm khó dễ , và sẽ giúp anh bán tượng phật này .
Hồi chánh viên bèn thuật lại mọi việc
như đã kể ở trên .Vụ đoạt đồ ly kỳ nhà Cô Bé Tý mà chủ xướng chính là đương sự
:
Thấy Bảo Tàng viện thành phố mất mát quá
nhiều cổ vật , đương sự và viên cố vấn TC bàn cách bù đắp thiếu hụt này . Biết
Cô Bé Tý có nhiều cổ vật quý hiếm mà không thể điều đình để mua bằng tiền , cả
2 bèn thảo kế hoạch hành động trình lên Vụ Trưởng Vụ văn hóa . Sau khi thỉnh thị
Bộ Giáo Dục Văn hóa Vụ không chính thức cho phép nhưng hứa kín với đương sự
giúp phương tiện và nhắm mắt cho họ hành động .Nếu thành công sẽ trọng thưởng ,
bằng không sẽ gánh lấy hậu quả 1 mình. Sau nửa tháng chuẩn bị chu đáo , đương sự
và 1 cán bộ dưới quyền đem tờ văn thư giả Bộ Nội Vụ nhờ Trưởng Khu Phố dẫn đến
giới thiệu với Cô Bé Tý cho thêm uy tín . Và kết quả là 4 xe 10 bánh chở đầy cổ
vật quý giá được đem cất dấu dưới hầm sâu của Bảo Tàng Viện L Finot. Đến khi có
đơn cớ của Chúa Tiên được Nha Công An thông tư. Văn hóa Vụ đến gặp Giám Đốc
Công An trình bày sự thực vụ này và yêu cầu bưng bít cho êm. Hai năm sau , Chúa
Tiên lại tống đơn tố giác đích xác dưới hầm Bảo Tàng Viện nhà hát Tây có oa trữ
các cổ vật. Quận Nhất bèn ngầm báo cho Bảo Tàng viện rõ tự sự . Đương sự lúc đó
là Quản thủ viện , biết nguyên đơn sẽ đòi khám xét , lập tức cho di chuyển vào
ban đêm các cổ vật lên gữi tạm trong Biệt Điện Chủ tịch Chính Phủ (dinh Toàn
Quyền cũ). Hôm sau , quả nhiên Quận Nhất đưa nguyên đơn đến xét hầm nhưng không
thấy gì .
Phó Ty hỏi hồi chánh viên làm sao mà đoạt
được vàng . Đương sự cho biết y đã lẹ tay nẫng được trong 1 phút sơ ý của quản
gia trước lúc ghi vào biên bản nhận các bảo vật cho mượn .
Sau khi nghe trình bày cặn kẻ vụ này ,
Phó Ty giữ lời , nội chiều hôm đó đã kiếm được người mua tượng vàng cho đương sự
.
Hào sảng không kém , hồi chánh viên nói
với Phó ty :
-Để tỏ lòng hối hận việc làm của tôi mặc
dù cho chính quyền CS Miền Bắc lúc đó , đồng thời , để tạ lòng ưu ái ông đối xử
với tôi suốt 4 tháng tại Trung tâm , tôi xin trích lại 1/3 số tiền bán tượng
giá 270.000 đồng là 90.000 đồng biếu ông làm duyên cho có đi có lại .
Một cuộc dàn xếp thật đẹp và bất ngờ
!!!!!
KHHB số 74D1
Read more:
http://tuvilyso.org/forum/topic/23822-48-co-be-ty-hang-bac-khhb-so-74c2-va-74d1/#ixzz3g2GU6n19
==================
==>> Nữ: Sinh ngày 22 hoặc 23, tháng Giêng, Năm Kỷ Sửu, giờ Dần
==================
Mò
lá số chắc cũng hok khó, đại khái thế này:
- Năm: dựa vào mệnh tại Tí có Khôi Việt thì tuổi Ất hoặc Kỷ. 17 tuổi vào năm 1905, và tròn 30 tuổi vào năm 1919 thì sinh năm 1889 = Kỷ Sữu
- Giờ: mệnh tại Tí có Xương Khúc chiếu thì tất Xương Khúc tại Ngọ và Thân thì thuộc giờ Dần hoặc Thìn
- Dùng Tả Hữu có thể tính ra tháng, nhưng theo cách nói thì hok rõ đủ Tả Hữu chiếu mệnh hay chỉ 1 hoặc hội tại Thân nên hok thể dùng Tả Hữu để xét
- "Năm ẤT MÙI (1956) đáo hạn địa kiếp nên tán gia tài" - năm 1956 thì 68 tuổi tức Đại Vận tại Ngọ, mà giờ thì Dần hoặc Thìn thì hok thể có Địa Kiếp. Còn nếu cho rằng người xem khởi Vận trước 1 cung thì Đại Vận tại Mùi nếu là giờ Thìn thì có Địa Không và Địa Kiếp chiếu thì họ phải nói là hạn gặp Địa Không hoặc gặp Không Kiếp chứ hok thể chỉ nói con Địa Kiếp từ tam hợp. Nếu xét Tiểu Vận năm Ất Mùi (1956) thì vào cung Sửu (tuổi Sửu năm Mùi thì vào cung Sửu), nếu sinh giờ Dần thì có Địa Kiếp tại Sửu. Vậy từ đây ta có được giờ sinh là Giờ Dần
- Tháng: biết Mệnh tại Tí và sinh giờ Dần thì tháng tất là Tháng Giêng
- Ngày: Tuy nói "mệnh cô BÉ TÍ trong câu chuyện trên là mệnh VCD tại Tí", nhưng theo NL thì hok thể nào VCD được, vì:
- Năm: dựa vào mệnh tại Tí có Khôi Việt thì tuổi Ất hoặc Kỷ. 17 tuổi vào năm 1905, và tròn 30 tuổi vào năm 1919 thì sinh năm 1889 = Kỷ Sữu
- Giờ: mệnh tại Tí có Xương Khúc chiếu thì tất Xương Khúc tại Ngọ và Thân thì thuộc giờ Dần hoặc Thìn
- Dùng Tả Hữu có thể tính ra tháng, nhưng theo cách nói thì hok rõ đủ Tả Hữu chiếu mệnh hay chỉ 1 hoặc hội tại Thân nên hok thể dùng Tả Hữu để xét
- "Năm ẤT MÙI (1956) đáo hạn địa kiếp nên tán gia tài" - năm 1956 thì 68 tuổi tức Đại Vận tại Ngọ, mà giờ thì Dần hoặc Thìn thì hok thể có Địa Kiếp. Còn nếu cho rằng người xem khởi Vận trước 1 cung thì Đại Vận tại Mùi nếu là giờ Thìn thì có Địa Không và Địa Kiếp chiếu thì họ phải nói là hạn gặp Địa Không hoặc gặp Không Kiếp chứ hok thể chỉ nói con Địa Kiếp từ tam hợp. Nếu xét Tiểu Vận năm Ất Mùi (1956) thì vào cung Sửu (tuổi Sửu năm Mùi thì vào cung Sửu), nếu sinh giờ Dần thì có Địa Kiếp tại Sửu. Vậy từ đây ta có được giờ sinh là Giờ Dần
- Tháng: biết Mệnh tại Tí và sinh giờ Dần thì tháng tất là Tháng Giêng
- Ngày: Tuy nói "mệnh cô BÉ TÍ trong câu chuyện trên là mệnh VCD tại Tí", nhưng theo NL thì hok thể nào VCD được, vì:
+ Quyền: tuổi
Kỷ thì Tham hóa Quyền, mà mệnh cô này có Quyền Lộc hội thì tất Tham Lang phải ở
1 trong 4 cung là Mệnh Quan Tài Di. Nếu Tham tại Mệnh Quan Tài thì tam
giác MQT là cách SPT mỗi cung 1 sao. Nếu ở cung Di thì Mệnh tất có Tử Vi
+ Lộc: tuy nói Mệnh có Quyền Lộc, nhưng cũng có thể là nói về Lộc Tồn nên hok nhất thiết Mệnh Quan Tài Di có Vũ (Vũ hóa Lộc)
==>> vì vậy mà NL hok nghĩ là Mệnh VCD, trừ khi người viết nhầm hoặc mệnh hok phải tại Tí. Ta có nghi vấn ở chổ này, tuy nhiên theo chị LTT có xác định là "vấn đề mệnh VCD tại Tý có <strong style="color: rgb(0, 0, 255);">Tham lang đào hoa tại ngọ xung chiếu (chi tiết này nói trong phần lá số)" thì vấn đề có thể được giải tỏa. Tức Mệnh hok phải hok có chính tinh mà là Mệnh tại Tí có Tử Vi tọa thủ. Cũng có thể người luận số cô này theo lối xét chính tinh hok đồng hành với bản mệnh thì liệt vào là VCD.
+ Ngày: tuổi Kỷ, mệnh lập tại Tí thuộc Thủy Nhị Cục. Thủy Nhị Cục để có Tử Vi tại Tí thì ắt phải sinh ngày 22 hoặc 23
</strong>
+ Lộc: tuy nói Mệnh có Quyền Lộc, nhưng cũng có thể là nói về Lộc Tồn nên hok nhất thiết Mệnh Quan Tài Di có Vũ (Vũ hóa Lộc)
==>> vì vậy mà NL hok nghĩ là Mệnh VCD, trừ khi người viết nhầm hoặc mệnh hok phải tại Tí. Ta có nghi vấn ở chổ này, tuy nhiên theo chị LTT có xác định là "vấn đề mệnh VCD tại Tý có <strong style="color: rgb(0, 0, 255);">Tham lang đào hoa tại ngọ xung chiếu (chi tiết này nói trong phần lá số)" thì vấn đề có thể được giải tỏa. Tức Mệnh hok phải hok có chính tinh mà là Mệnh tại Tí có Tử Vi tọa thủ. Cũng có thể người luận số cô này theo lối xét chính tinh hok đồng hành với bản mệnh thì liệt vào là VCD.
+ Ngày: tuổi Kỷ, mệnh lập tại Tí thuộc Thủy Nhị Cục. Thủy Nhị Cục để có Tử Vi tại Tí thì ắt phải sinh ngày 22 hoặc 23
</strong>
==>> Nữ: Sinh ngày 22 hoặc 23, tháng Giêng, Năm Kỷ Sửu, giờ Dần
À huh, NL bỏ sót điểm
LNDV .
68 tuổi thì LNDV vào cung Mão cũng khớp với Địa Kiếp giờ Thìn nên hok thể bỏ
qua.
Vậy thì thêm 2 lá số nữa:
Giờ Thìn, ngày 22 tháng 3 năm Kỷ Sửu
Giờ Thìn, ngày 23 tháng 3 năm Kỷ Sửu
Vậy thì thêm 2 lá số nữa:
Giờ Thìn, ngày 22 tháng 3 năm Kỷ Sửu
Giờ Thìn, ngày 23 tháng 3 năm Kỷ Sửu