Thái-Cực
Tử-vi Bí-pháp
KHẢO-LUẬN về THÂN và MỆNH
HƯƠNG-VÂN
cư sĩ
Trong khoa đoán số Tử Vi, việc đầu tiên
phải làm là tính giờ sanh và an trí các cung Mệnh và cung Thân trên Thiên bàn tức
là trên vòng mười hai Ô của tờ giấy.
Muốn định các cung Mệnh và Thân cần phải
biết tháng sanh và giờ sanh đúng theo Âm lịch. Chúng ta đều biết rằng Giờ sanh
là một dữ kiện quan yếu, nhất là trong việc an MỆNH và định CỤC.
Để hiểu được thấu đáo căn nguyên của vấn
đề này, cũng là vấn đề then chốt, ta sẽ lần lượt tìm hiểu các lý thuyết căn bản
mà rất ít người có dịp đề cập đến. Trong tinh thần khảo sát khoa học dù là khoa
học huyền cơ, những lý thuyết khởi đầu, những phương pháp lý luận và diễn tả đều
là những yếu tố để minh định giá trị khoa học của một bài luận. Vì thế nên
trong các phần sau đây, chúng tôi cố gắng trình bày theo đúng phương pháp khoa
học:
“Lý thuyết là khởi đầu và kết thúc của mọi
công cuộc Khảo Sát Khoa học.”
I – Lý thuyết về bào thai và tượng hình.
Ảnh hưởng của giờ sanh.
Theo kinh nghiệm của Đông Phương Y lý mà
Y học Âu Tây cũng công nhận, Đạo gia Thái cổ đã lập nên một lý thuyết được diễn
tả sơ lược như sau:
Ngay sau khi một phôi noãn (cái trứng)
đã thụ khí trong tử cung thì cái mầm sống bé nhỏ ấy bắt đầu lớn lên, và chuyển
biến theo các chu trình tự nhiên. Tại trung đạo giữa các chu kỳ (thời gian) thì
bào thai lại có một hình tượng đặc biệt và càng ngày càng tiến hóa, trong khi
các chu kỳ càng ngày càng dài, như trong bảng sau đây:
1) Kể từ chu trình thứ 7 đến thứ 13, độ dài chu kỳ sẽ đều đặn là 1 tháng
âm lịch, nghĩa là theo chu kỳ kí huyết của con người do ảnh hưởng của mặt trăng
(Nguyệt kỳ).
2) Tuy nhiên chu kỳ hành khí căn bản do ảnh hưởng của mặt trời (Nhật kỳ)
vẫn còn tồn tại. Mỗi chu tuần này đúng 24 giờ mặt trời tức là 12 giờ Tử Vi.
Trong chu tuần một ngày, hành khí chuyển vận có lúc mạnh lúc yếu, lúc vượng lúc
suy.
Tùy theo đứa trẻ lọt lòng vào lúc trùng
với giờ vượng hoặc suy mà tánh khí cũng như số mệnh của nó thay đổi khác nhau. Do
đó, giờ sanh là một yếu tố quyết định trong Khoa Tử Vi.
Tương tự như vậy, ngày sanh trong tuần
trăng (tức là tháng âm lịch) sẽ ảnh hưởng đến số mệnh, được biểu hiện trong
phép an các bộ Tử Vi và Thiên phủ. Soạn giả sẽ bàn đến trong loạt bài kế tiếp,
sau khi bàn về phép lập Cục theo ngũ hành.
II
– Lý thuyết về phương vị trong không gian. Phép định cung THÂN
Trong phần lý thuyết này, tùy theo tháng
sanh và giờ sanh, mà người ta chịu ảnh hưởng tại một vùng trời nhất định trong
không gian.
Điều này sẽ được diễn tả theo Thiên văn
Học để độc giả tân học tiện theo dõi.
Vị trí của mặt trời trong giải Ngân Hà
Sông Ngân Hà, gồm có hàng tỉ tỉ sao đủ
loại, chiếm một khoảng không gian rộng lớn, tương đối ít thay đổi, được xem như
bất di dịch. Mặt trời cùng với vòm sao, mà ta thấy được trong những đêm tốt trời,
chỉ chiếm một khoảng thật nhỏ trong Ngân Hà, như hình vẽ sau đây.
Vị
trí của quả đất đối với Mặt Trời trong Ngân Hà
Trong khoảng vòm sao này, Mặt Trời xem
như đứng yên và địa cầu lại chạy vòng quanh Mặt Trời, như trong hình vẽ tiếp
sau đây.
Chung quanh Mặt Trời được chia ra làm 12
vùng hình quạt được đánh số theo chiều kim đồng hồ, từ số 1 đến số 12. Đó là mười
hai vùng của Ngân Hà hoặc của không gian.
Cần phải chú ý rằng: Người Trung Hoa ở về
phía Bắc, khi nhìn lên bầu trời, họ thường quay về phía Nam, và vì vậy họ lấy
trục từ Băc đến Nam, do đó chiều quay của địa cầu được thấy trong hình vẽ từ phải
sang trái. Hình này là hình lật ngược của hình vẽ trong sách Thiên Văn của Tây
Phương, nhưng vẫn hoàn toàn đúng với thực tế.
Trong hình vẽ này, địa cầu đang ở vùng số
8 âm lịch. Trong tháng 8 này, tùy theo giờ sanh (đối với vị trí mặt trời) mà kẻ
ra chào đời chịu ảnh hưởng TẠI một vùng của Ngân Hà.
Thí dụ:
Sanh tháng 8:
Vào giờ Tí, thuộc vùng 8
Vào giờ Sửu, thuộc vùng 9
Vào giờ Dần, thuộc vùng 10
Vào giờ Mão, thuộc vùng 11
Vào giờ Thìn, thuộc vùng 12
Vào giờ Tị, thuộc vùng 1
Vào giờ Ngọ, thuộc vùng 2
và vân vân.
Phép
định cung THÂN
Căn cứ vào lý thuyết và dữ kiện thiên
văn nói ở trên đây, người ta đặt 12 vùng vào 12 cung của Thiên bàn, rồi tùy
theo tháng sanh và giờ sanh mà tìm cung nào chịu ảnh hưởng: đó là cách định
cung THÂN vậy.
Muốn tìm phương vị của THÂN, thì hãy đặt
hình vẽ ở trang trước vào khoảng trống ở giữa Thiên bàn, sanh tháng nào thì thì
quay cho mũi tên giờ Tí chỉ vào số ấy (sanh tháng 11, mũi tên chỉ vào số 11). Rồi
xem giờ sanh chỉ cung nào, là THÂN đóng tại cung đó.
Muốn cho tiện lợi và nhanh chóng, xin
xem bảng kê ở cuối bài này để tra tìm cung THÂN và cung MỆNH luôn thể.
Tuy thế, cách tìm cung Thân và Mệnh theo
lối xưa, là lối đếm cung, vẫn dùng được mà không có gì là bất tiện lắm.
III
– Lý thuyết về vũ trụ siêu hình. Sự phân biệt Thân với Mệnh
Trong các phần trên đây, chỉ nói đến
cách tìm phương vị trong không gian và suy ra cách tìm cung THÂN. Tất cả các điều
ấy đều nằm trong phạm vi của thế giới vật chất hay vũ trụ hữu hình.
Theo thuyết lý của Đạo gia học thuật thì
song song với vũ trụ hữu hình còn có thế giới vô hình hay vũ trụ siêu hình. Vũ
trụ siêu hình cũng có các hình tướng riêng mà ta không cảm biết được với những
giác quan thông thường. Nhưng hai thế giới vô hình và hữu hình vẫn liên hệ với
nhau bởi các nguyên lý siêu việt mà kết quả là hai thế giới này liên lạc với
nhau rất chặt chẽ bằng những luật tự nhiên.
Sau đây là vài nguyên tắc khởi đầu:
1 – Hữu hình kết tụ thì siêu hình giải tán và ngược lại.
2 – Hữu hình tiến thì siêu hình thoái và ngược lại.
3 – Hữu hình và vô hình nhất động nhất tĩnh và ngược lại.
4 – Chiều chuyển hóa của hữu hình và vô hình luôn luôn ngược với nhau
trong không gian và thời gian tương đối.
Trên đây chỉ là những nguyên tắc hỗ hoán
dùng làm căn bản trong việc tu luyện của đạo gia để cảm thông với Vũ trụ siêu
nhiên.
Soạn giả đã trình bày theo hình thức diễn
dịch của khoa học hiện đại để bạn đọc theo dõi được dễ dàng. Các nguyên tắc này
sẽ còn được đề cập đến luôn, trong bài khảo luận này.
Chính các nguyên tắc này đã được áp dụng
vào việc định MỆNH VỊ trong khoa Tử Vi Khí Vận:
1 – Theo đó thì khi quả đất quay theo chiều kim đồng hồ, khoảng thế giới
siêu hình thiết cận của nó cũng quay theo chiều nghịch lại, trong khoảng thời
gian tương đối.
2 – Theo giải lý của Khoa Tử Vi, chính ảnh hưởng của Vũ trụ siêu hình mới
thực sự quyết định Mệnh vận, vì nó cảm ứng trực tiếp vào Thần khí và Tuệ giác của
con người.
Do hai lẽ nêu trên, người ta an cung Mệnh
bằng cách tính nghịch lại với chiều quay quả đất.
Trong thí dụ ở hình vẽ 3, một người sanh
tháng 8, mặt trời ở cung Mão (số 2), nếu sanh giờ Dần (chẳng hạn) thì từ số 8
theo chiều thuận mà an THÂN ở cung Hợi (số 10) và theo chiều nghịch mà an MỆNH ở
cung Mùi (số 6).
Về sau này, khi luận đoán vận hạn, chúng
ta sẽ căn cứ vào các lý thuyết trên đây để phân biệt sự quan hệ của Thân và Mệnh.
Tiếp sau đây là Bảng để tìm cung an THÂN
và an MỆNH. Dùng bảng này để tránh mọi sự nhầm lẫn do sự đãng trí gây ra.
Cách
dùng bảng này
1) Chiếu tháng sanh theo cột dọc và chiếu
giờ sanh theo hàng ngang, gặp nhau tại 1 ô, chữ ghi trong ô này là cung an Mệnh.
2) Chiếu giờ sanh theo hàng ngang đến cột
THÂN CƯ là tìm thấy cung an Thân.
PHỤ
THÍCH VỀ CÁC LUẬT SIÊU HÌNH.
1
– Sự hiện hữu của Thế Giới Siêu Hình
Theo đúng tinh thần khoa học, muốn chối
bỏ cái sự hiện hữu của Siêu hình giới, ta cần phải minh chứng rằng “không thể
có được” một thế giới siêu hình.
Tuy nhiên, cho đến ngày nay, chưa có một
nhà khoa học nào chứng tỏ được thế cả. Mà trái lại, có quá nhiều dữ kiện (soạn
giả chưa dám dùng chữ: bằng chứng) của thế giới siêu hình hiển nhiên đã xảy ra.
Lẽ tất nhiên là với những phương tiện hữu hình người ta khó lòng minh chứng được
sự hiện diện của vũ trụ siêu hình.
Mặc dù vậy, thế giới siêu hình vẫn có thể
có vì không ai chứng tỏ được là chỉ có thể không.
Trong tinh thần ấy, và xuyên qua những kết
quả mà soạn giả đã thu hoạch được về siêu hình học, tôi xin trình bày sự giải
thích các nguyên tắc khới đầu đã nêu lên ở đoạn trước.
2
– Thứ Nhất: Hữu hình kết tụ thì Siêu hình giải tán và ngược lại.
Khi con người chết đi, hình hài tan rã,
thì linh khí hay thần khí lại kết tụ và rời khỏi hình hài để trở về với vô hình
giới.
Trong trường hợp lăng mộ của người chết
gặp nơi hội tụ thần khí của cõi vô hình thì phần khí chỉ kết tụ mà không hẳn rời
khỏi hình hài (di cốt) quá xa.
Trường hợp ngược lại, khi bào thai nẩy nở
thì vật chất hữu hình kết tụ thành hình vóc, càng ngày càng lớn, thì phần thần
khí của nó càng ngày càng phân tán. Kết quả là người ta càng lớn lên theo không
gian (vóc) hoặc theo thời gian (tuổi) thì phần thần khí bị tản mát nhiều; nếu
không biết cách tu luyện để giữ vững thì khả năng thần hóa càng ngày càng kém.
Vì lẽ đó, mà trẻ con học tập nhanh hơn người già, và người ta thường chọn trẻ
con là xác đồng. Tương tự như thế, trẻ con lúc ngủ dễ mộng mị nhiều hơn và trẻ
chết non rất linh ứng. Bạn đọc có thể tìm những thí dụ khác rất dễ dàng.
3
– Thứ Hai: Hữu hình tiến thì Siêu hình thoái và ngược lại.
Sự tiến thoái ở đây có thể là trong
không gian hoặc thời gian tương đối. Thí dụ về sự tiến hóa của bào thai là thuộc
về không gian tương đối.
Khi con người càng tiến về tương lai thì
càng già, đồng thời thần khí siêu hình của con người lại càng thoái về quá khứ.
Cho nên, càng về già, con người càng dễ cảm thông với quá khứ hơn.
Nguyên tắc thứ hai này cũng được dùng để
giải thích các trường hợp về luân hồi quả báo. Tuổi trẻ gặp quả báo cho những
duyên nghiệp của quá khứ gần và lúc già phải chịu quả báo của quá khứ xa.
4
– Thứ Ba: Hữu Hình và Vô Hình: nhất động, nhất tĩnh và ngược lại.
Theo luật này khi hình xác hóa động thì
thần khí siêu hình phải tĩnh, và nghịch lại.
Điều này chúng ta thường gặp và thường
dùng luôn mà không cảm biết. Muốn suy tưởng thì phải có phần hữu hình thật yên
tĩnh để cho phần siêu hình động, tư tưởng sẽ được dồi dào và phát triển dễ
dàng. Cũng vì lẽ này mà khi ngủ ta thường chiêm bao.
Ngoài ra, nguyên tắc thứ ba này là căn bản
của phương pháp tu luyện của mọi môn phái siêu linh học, cổ cũng như kim.
Độc giả có thể tự tìm lấy các thí dụ và
những áp dụng thông thường của nguyên tắc này.
5
– Thứ Tư: Chiều chuyển hóa của hữu hình và vô hình luôn luôn ngược với nhau.
Nguyên tắc này rất giống nguyên tắc thứ
hai, nhưng khác nhau ở chỗ là vô hình và hữu hình tương đối là cùng động cả.
Ta có thể dùng Hình Học hiện đại để dễ
dàng hiểu được điều này:
- Hữu hình là hình Vị Tự của Vô hình (hay ngược lại).
- Tỉ số vị tự k < 0 là số âm. (II)
- Trị số tuyệt đối |k| thay đổi một chiều. (I)
- Ảnh của 2 hình vị tự âm phải nghịch nhau (III).
(CÒN NỮA)
(KHHB số 10)
Read more:
http://tuvilyso.org/forum/topic/23819-45-thai-cuc-tu-vi-bi-phap-khao-luan-ve-than-va-menh-khhb-so-10/#ixzz3g1zORyY0